Trên chuyến công tác về huyện Điện Biên Đông (Điện Biên), tôi cố gắng vượt qua những con đường len lỏi giữa điệp trùng đá núi để đến được những bản làng vùng sâu, vùng xa.
Ở đó, vẫn tồn tại nhiều chuyện hoang đường đến khó tin về ma chài, ma lai, ma cà rồng được lưu truyền, ăn sâu vào trong nếp nghĩ của đồng bào các dân tộc Thái, Mông…
Khởi nguồn từ mê tín dị đoan
Ngay từ thuở sơ khai, hai dân tộc Thái - Mông ở Điện Biên Đông đã có rất nhiều những nghi lễ, phong tục truyền thống ảnh hưởng sâu sắc tới tín ngưỡng được truyền từ đời này qua đời khác. Trong đời sống tâm linh của đồng bào, thần thánh và ma quỷ luôn có chỗ ngự trị. Thực chất, có quá nhiều những câu chuyện hư hư, thực thực như thế ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này. Bất cứ nhà ai có người hoặc vật nuôi bị bệnh đau ốm, điều đầu tiên người ta nghĩ tới là bị “ma ám”, hoặc bị yểm bùa. Thay vì tìm thầy thuốc chữa trị, đồng bào thường nhờ đến thầy mo, thầy cúng để giải trừ.
Nhưng điều đáng nói ở đây là từ những suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu, mang đậm màu sắc mê tín dị đoan ấy mà rất nhiều con người phải “sống dở, chết dở” vì bị nghi ngờ là ma gà, ma lai, ma xó. Thậm chí, nhiều thiếu nữ miền sơn cước được trời phú cho sắc đẹp tuyệt mỹ, bỗng dưng bị cho là hiện thân của “ma cà rồng”. Kể từ đó, cuộc sống của họ chỉ còn là những ngày u ám khi bà con dân bản đều nhìn họ bằng ánh mắt kinh sợ, xa lánh.
Căn nhà sàn của bà Sùng Thị Th nằm ngửa mặt ra con đường rải đá ở cuối bản Phì Nhừ (huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên). Bà Th là người dân tộc Mông, năm nay đã gần 78 tuổi và được người dân nơi đây cho rằng biết rất nhiều chuyện người xưa truyền lại về các loài ma. Bà Th kể rằng, không chỉ các cụ đời xưa mà ngày nay, người dân tộc Mông vẫn nói với nhau rằng “ma cà rồng” thường hóa thân vào các cô gái đẹp, da trắng như trứng gà bóc, môi đỏ như máu, tóc đen chảy dài xuống lưng.
Cũng theo lời bà Th thì “ma cà rồng” chẳng bao giờ chết và “nó” không trú chân ở hẳn một nhà mà cứ lang thang khắp nơi theo chu trình của một đời người. Vì thế, người nào bị dân bản nghi là “ma” thì trọn đời, trọn kiếp phải chịu muôn vàn tiếng xấu. Cô gái bị “ma cà rồng” nhập xác, nếu lấy chồng, “ma” theo cô gái ấy về nhà chồng. Cô gái ấy sinh con, “hồn ma” nhập sang con gái, “hồn ma” nhập sang cháu gái. Nếu không có cháu gái thì núp tạm sau cháu dâu.
Một góc Phình Giàng
Chính vì quan niệm cổ hủ ấy đã khiến cho nhiều cô gái có nhan sắc cùng thế hệ với bà Th bị người trong làng bản ghê sợ, cách ly. Ban đầu chỉ là những lời đồn thổi, bán tín bán nghi, sau cứ thế câu chuyện được người dân đem đi rải vãi khắp nơi. Bao trùm lên khắp rừng xanh núi đỏ đều váng vất những hồn ma, bóng quế. Những lời đồn thổi quái ác, hoang đường ấy như cái vòng kim cô siết chặt các nạn nhân. Những cô gái đó, dù có xinh đẹp, giỏi giang đến đâu cũng phải chịu sống trong cảnh cô quạnh đến tột cùng. Phần lớn các cô đều phải bỏ làng, bỏ bản ra đi mới mong kiếm được tấm chồng. Thậm chí nhiều cô đã yên bề gia thất vẫn bị những lời đồn đoán ấy đeo bám mãi không thôi.
Phải bỏ làng mới lấy được chồng
Những gì liên quan đến “ma cà rồng” chỉ là những lời truyền miệng nhưng bà cụ người Mông này một mực khẳng định hiện nay vẫn còn những gia đình trong dân tộc mình bị coi là “ma cà rồng” nhập xác. Khi được hỏi về một trường hợp cụ thể, bà Th xua tay rối rít: “Không nói được đâu. Sợ lắm. Nhắc đến có khi “nó” làm cho cả nhà chết ấy chứ!”. Phải thuyết phục mãi, bà Th mới “bật mí” về một trường hợp bị nghi là “ma cà rồng” ở xã Phình Giàng. Đó là trường hợp của Sùng Thị S (SN 1992).
S đẹp, vẻ đẹp rất đặc trưng của thiếu nữ người Mông: Da trắng, cổ cao, mắt tròn to và ướt rượt. Cô rực rỡ hệt như bông hoa hướng dương nở giữa rừng.
Thế nhưng oái oăm thay, chẳng hiểu vì sao năm S lên 17 tuổi thì trong bản rộ lên tin đồn cô bị “ma cà rồng nhập xác”. Một đồn năm, năm đồn mười, chẳng mấy chốc tin đồn ấy lan ra toàn xã. Gia đình, bố mẹ S cũng vì chuyện đó mà không còn dám khỏi nhà vào ban ngày sợ chạm mặt bà con, có việc gì cần kíp lắm thì toàn phải đi vào ban đêm, công việc nương rẫy, đồng áng cũng vì thế mà bê trễ. Đã thế, người ta lại càng được dịp thêu dệt rằng nhà S “nuôi ma” trên núi nên tối tối mới phải thường phải đi cho “ăn”.
Chính vì thế, mãi đến năm 20 tuổi, S vẫn chưa có một mảnh tình vắt vai, trong khi các bạn cô ở tuổi đó đã con đàn con đống. Bởi đơn giản là các chàng trai trong bản đều kinh sợ chẳng ai dám đến gần S, ai bạo gan thì cũng chỉ dám đứng từ xa mà ngắm. Không đành lòng nhìn con gái “chết già trong cô quạnh”, bố mẹ S đã phải gửi cô xuống nhà ông anh họ ở mãi tận xã Nậm Vì (huyện Mường Nhé, Điện Biên). Vì sợ “người đi đâu tin đồn theo đó” nên chuyến đi của S diễn ra hết sức âm thầm, bí mật. Bố cô nửa đêm lặn lội vượt mấy chục kilomet đường đèo dốc đưa con gái bằng xe máy xuống TP. Điện Biên Phủ. Rồi từ thành phố, S tự mình bắt xe khách ngược lên Mường Nhé.
Xuống sống ở nhờ nhà bác họ một thời gian, tinh thần phấn chấn vì không còn bị ám ảnh bởi những lời đồn ác ý, S ngày càng phổng phao và xinh đẹp. Sự xuất hiện của “bông hoa lạ” khiến cả bản xôn xao. Rất nhiều ông bố, bà mẹ đánh tiếng muốn cưới S về cho con trai của họ. Và, cuối năm 2012, S lấy chồng. Chồng cô người ở xã Nậm Vì. Đến giờ, S đã sinh được một cậu con trai kháu khỉnh. Tết vừa rồi, hai vợ chồng cô cũng đã dắt nhau về thăm bố mẹ ở Phình Giàng.
Bằng tiếng Kinh lơ lớ, S tâm sự, đại ý rằng: “Đến giờ em cũng chẳng hiểu tại sao mình lại phải hứng chịu những lời đồn thổi đầy ác ý ấy. Ngày đó, cả nhà em không mấy khi dám ló mặt ra đường. Đang học dở phổ thông em cũng phải bỏ giữa chừng, bởi cứ mỗi lần bước vào lớp là các bạn lại trêu trọc, cười đùa. Em toàn phải ngồi một mình trong xó lớp. Nhiều hôm trên đường đi học về em còn bị trẻ con cầm đá ném túi bụi, phải lấy cặp che đầu. Trong bản em cũng có mấy chị bị như vậy, họ đều rất khó lấy chồng. Mà có lấy cũng toàn lấy những người chẳng ra gì, không vợ chết thì cũng nghiện ngập, rượu chè…”.
Dọa giết em trai vì nghi là ma xó
Không chỉ làm những người như S “sống dở, chết dở”, mà chính vì những suy nghĩ lạc hậu, ấu trĩ ấy của đồng bào mà đôi khi tình làng nghĩa xóm bị sứt mẻ, dư luận hoang mang, ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết của nhân dân. Điều trớ trêu là ngay cả những người được xem là có ăn học đàng hoàng, có hiểu biết pháp luật mà đôi khi cũng mê mụ tin vào những chuyện hoang đường. Đó là trường hợp ông Lầu Giống Chu, SN 1958, cựu cán bộ xã Phì Nhừ (huyện Điện Biên Đông).
Ông Chu có một người em trai là Lầu Sái Và. Mấy năm trước, hai anh em ông Chu có xảy ra mâu thuẫn. Dù đã được cán bộ thôn bản đến hòa giải, nhưng mối quan hệ giữa ông Chu và ông Và cũng không tốt đẹp lên được là bao. Đến tháng 1/2013, không chịu nổi cảnh sống chung một nhà với em trai, ông Chu đã cùng vợ con chuyển sang sinh sống tại bản Chua Ta, xã Phình Giàng. Tuy không còn phải hàng ngày chạm mặt với em trai, nhưng trong bụng ông Chu vẫn chưa hề nguôi giận. Thời gian đó, cũng do tuổi già lại suy nghĩ nhiều nên ông Chu tự nhiên đổ bệnh, toàn thân đau nhức. Nghĩ là do bị em trai mình “nuôi ma” rồi bỏ bùa, bỏ bả nên ông Chu càng uất hận và nuôi chí trả thù.
Khoảng giữa tháng 4/2013, ông Chu đã nhiều lần gọi điện thoại dọa ông Và: “Nếu mày không “rút ma” ra khỏi người tao thì gặp mày ở đâu, tao cũng giết”. Có một điều trùng hợp là cũng trong khoảng thời gian đó, nhà ông Và bị ai đó ném vào một quả mìn tự tạo. Tuy mìn nổ nhưng rất may là không ai bị thương vong. Lo sợ bị anh trai trả thù, ông Và đã báo cáo việc này với chính quyền. Phải mất rất nhiều thời gian và công sức, các cơ quan chức năng của xã Phì Nhừ và huyện Điện Biên Đông mới hóa giải được mối hận thù giữa hai anh em họ Lầu. Đến tận giờ, ông Chu mới thôi nghĩ em trai mình là ma gà, ma xó.
Khi nói về những tập tục mê tín dị đoan của đồng bào người Mông, người Thái, ông Sùng A Dếnh, cán bộ văn hóa Phình Giàng, tâm sự: “Tuyên truyền, giải thích nhiều cho bà con nên hiện giờ hiện tượng mê tín dị đoan có giảm. Những câu chuyện về ma người ta vẫn truyền tai nhau kể không hết, nhưng chỉ cần hỏi chứng cứ đâu, tất cả đều trả lời là chỉ nghe kể lại, biết thế nào thì nói thế! Hy vọng sau này, lớp trẻ được ăn học đàng hoàng thì không còn tin vào những điều mê muội nữa…”.