Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ làng An Xá đến Điện Biên Phủ

Thái Văn| 28/04/2014 09:53
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Việt Nam trong thế kỷ XX đầy biến động có hai thời điểm lịch sử, đánh dấu những chiến thắng đặc biệt, đó là ngày 30/4/1975 - Ngày thống nhất đất nước, và trước đó, ngày 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên Phủ.

Những sự kiện trọng đại trong lịch sử đất nước đó gắn liền với tên tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013). Ông xuất thân từ một thầy giáo dạy lịch sử mà trở thành nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất.

Nhà giáo tâm huyết

Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/08/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân), một nhà nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên. Ông nội Võ Nguyên Giáp cũng từng tham gia phò tá vua Hàm Nghi trong Phong trào Cần Vương. Thân phụ ông, là một nho sinh thi cử bất thành về nhà làm hương sư và thầy thuốc Đông y trong làng. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, cụ Võ Quang Nghiêm bị người Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ làng An Xá đến Điện Biên Phủ

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp

Tư liệu Từ điển mở Wiki cho hay: Về họ ngoại, ông ngoại Võ Nguyên Giáp quê ở thôn Mỹ Đức xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy, đầu nguồn sông Cẩm Ly, một vùng sơn cước, dưới dãy Trường Sơn; từng tham gia Phong trào Văn thân - Cần Vương, làm đến chức Đề đốc coi đại đồn tiền vệ, sau bị quân Pháp bắt, tra tấn dã man, nhưng một mực trung thành, không một lời khai báo.

Cha ông là một nhà Nho nên dạy dỗ con cái rất nghiêm cẩn trong sinh hoạt gia đình và học hành, giữ gìn nề nếp gia phong của đạo Khổng. Ông dạy đám học trò cùng hai con ông những sách giáo khoa cơ bản hồi đó như Tam thiên tự, Ngũ thiên tự và cả Ấu học tân thư. Năm tháng học chữ Nho không nhiều nhưng những đạo lý học được trong các sách của Thánh hiền Nho gia, đặc biệt là Ấu học tân thư, đã trở thành nền tảng cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc trong cả cuộc đời ông.

Học xong lớp 3 Võ Nguyên Giáp phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp, Đồng Hới thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình, cách làng An Xá của cậu trên 20 cây số, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh lung linh soi bóng Lũy Thầy, với thành cổ bao quanh từ thời Gia Long năm thứ 10 (1812) và được xây lại bằng gạch năm Minh Mạng thứ năm (1824).

Những năm học ở thị xã Đồng Hới, cậu được học với nhà sư phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh. Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào). Trong 2 năm học, ông luôn đứng đầu lớp trừ 1 tháng bị rớt xuống hạng nhì. Trong thời gian này, cậu Giáp có vài lần đến thăm cụ Phan Bội Châu để nghe thuyết giảng về lý tưởng Cách mạng.

Năm 1927, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng. Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ làng An Xá đến Điện Biên Phủ

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà báo Catherine Karnow tại Hà Nội năm 1994

Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa Phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sư Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng... Sau này  Nguyễn Thị Quang Thái trở thành người vợ đầu tiên của ông. Đại tướng có một con với bà là Võ Hồng Anh. Năm 1944, bà Nguyễn Thị Quang Thái hi sinh.

Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937. Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.

Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng. Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường. Học sinh của ông mô tả rằng: ông có thể vẽ lên bảng đen sơ đồ từng trận đánh của Napoléon, ông sôi nổi kể về Công xã Paris, về cái chết của những nhà Cách mạng như Danton và Robespierre, "ông không chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê, luôn bênh vực tính chính nghĩa của lịch sử".

Đại tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam

Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp cùng Phạm Văn Đồng lên Lào Cai rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Chỉ sau một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh đã thấy Võ Nguyên Giáp là người triển vọng nên liên hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc và cử ông đi học quân sự tại căn cứ địa Diên An. Trên đường tới Diên An, ông được Hồ Chí Minh gọi quay lại vì tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Hồ Chí Minh nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ.

Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Năm 1941 đúng dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Hồ Chí Minh trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Bó, Hồ Chí Minh tiên đoán cách mạng sẽ thành công vào năm 1945, một dự đoán chuẩn xác: "Trong 5 năm nữa (tính từ 1941) cách mạng sẽ thành công, điều chúng ta mong đợi sẽ tỏa sáng". Niềm tin sắt đá đó đã giúp Võ Nguyên Giáp và các đồng chí có thêm niềm tin vào tương lai.

Đời sống ở Việt Bắc rất cực khổ, ông kể: "Tìm được cái ăn đã là chiến công. Chúng tôi phải chia nhau từng củ sắn, từng bắp ngô". Nhiều người bối rối dao động, có người e ngại: làm sao Cách mạng thành công khi không có súng và lấy đâu ra súng? Những lúc ấy, ông không bao giờ quên lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Chúng ta sẽ dựa vào sức mình là chính cùng với một ít viện trợ từ nước ngoài. Mọi việc đều do nhân dân mà nên. Người trước súng sau, có nhân dân là có tất cả."

Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng. Trong thời gian này, Pháp tăng cường càn quét Việt Bắc, ai mang tài liệu Việt Minh sẽ bị bắn ngay. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: trong thời gian này, ông thường mang theo một quả lựu đạn để nếu bị bắt thì sẽ cho nổ để vừa chết nhanh chóng vừa kéo theo được vài tên địch.

Ngày 22/12/1944, theo hướng dẫn của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngày 25/12/1944, Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ làng An Xá đến Điện Biên Phủ

Cổng vào ngôi nhà thời thơ ấu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ, cộng hòa thành lập, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (Thứ trưởng thường trực) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28/8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ năm 1946.

Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).

Ngày 19/12/1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.

Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28/5/1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20/1/1948, ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi 37 tuổi. Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng phong thiếu tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng phong đại tướng". Cùng đợt phong hàm có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng.

Điện Biên Phủ chấn động địa cầu

Như các danh tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh nhân dân, kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.

Trong 9 năm trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung". Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ làng An Xá đến Điện Biên Phủ

Ngày 7/5/1954, quân địch đầu hàng, kết thúc 9 năm kháng chiến gian khổ

Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn". Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp.

Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp, được đánh giá là “pháo đài khổng lồ bất khả công phá”, nhưng với phương châm “đánh chắc, tiến chắc” của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, quân đội Việt Nam đã tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm này, sau 55 ngày đêm gian khổ.

Chiến thắng này đã đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người anh hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng mình.

Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm cai trị.

Thế giới nhận xét

Nhà báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow (1925 - 2013) là người có mặt tại Việt Nam từ năm 1959, và là tác giả quyển sách nổi tiếng "Vietnam: A History" xuất bản năm 1983, viết: "Tướng Giáp là một người đặc biệt. Ông vừa là một nhà hoạch định chính sách, vừa là một sĩ quan trên chiến trường. Người Pháp đã từng gọi ông là "trái núi lửa phủ băng". Ông là một người đàn ông lịch thiệp, luôn có chút hài hước khi trò chuyện. Ông ấy đặc biệt thông minh và có một kiểu bặt thiệp "rất Pháp"".

Karnow cho rằng, tài năng chiến lược của Tướng Giáp đã đặt ông vào "ngôi đền của những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại" như Wellington, Ulysses S. Grant hay Douglas MacArthur. Nhưng khác với họ, những chiến tích của ông là bởi nhờ tài năng thiên bẩm hơn là nhờ đào tạo chính quy.

Con gái ông Stanley Karnow, nhà báo Catherine Karnow, sau nhiều thời gian nghiên cứu về lịch sử Việt Nam cũng nhận xét: "Tướng Giáp là "khối óc" của trận Điện Biên Phủ nổi tiếng, trận đánh giúp giành độc lập cho Việt Nam từ người Pháp, vào tháng 5/1954. Ông cũng đóng góp lớn cho chiến thắng của Việt Nam trước quân Mỹ vào tháng 4/1975".

Nhà báo, nhà sử học quốc tế gốc Áo Benard Fall (1926-1967), cũng là người đã có nhiều năm theo dõi tin tức về khu vực Đông Dương những năm 50, 60 của thế kỷ 20 đã có một lời đánh giá từ năm 1962 trong tác phẩm "Võ Nguyên Giáp - con người và huyền thoại": "Trong một tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào sánh kịp với Võ Nguyên Giáp".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ làng An Xá đến Điện Biên Phủ

Hơn 10.000 tù binh của Pháp ở Điện Biên Phủ được ta trao trả

"Di sản lớn nhất ông để lại chính là vai trò của mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến lược chiến tranh nhân dân. Đó là biểu tượng cho lực lượng yếu chống lại lực lượng mạnh bằng chính trị và quân sự", Giáo sư William Duiker, học giả nghiên cứu về khu vực Đông Á tại Đại học Penn State, Mỹ, và là tác giả của nhiều cuốn sách nói về Việt Nam nói.

Nhà nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự người Anh, Peter Mac Donald, đánh giá: "Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại. Với 30 năm làm tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có".

Năm 1992, Peter McDonald đã xuất bản tác phẩm "Võ Nguyên Giáp - Một sự đánh giá" (Giap, an assessment), trong đó, có trích lời nhận xét của vị tướng Pháp Marcel Bigéard (1916-2010), người từng chỉ huy quân đội Pháp tại Việt Nam: "Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy và chiến thắng qua một thời gian khá dài, đạt được kết quả ấy trong thời gian suốt 30 năm, thật là một chiến tích kỳ diệu".

Cuốn sách cũng trích lời của Đại tướng Mỹ William Westmoreland - một trong những đối thủ của Tướng Giáp, nhận xét: "Võ Nguyên Giáp là một con người cương nghị, một vị tướng vĩ đại". Theo Westmoreland, ông tìm thấy ở Võ Nguyên Giáp một con người đầy nghị lực. Ông nói: "Những vị tướng chỉ huy quân sự ở cấp cao buộc phải có đức tính này, nếu không, họ sẽ không tồn tại lâu được".

Trong khi đó, Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam tại Đại học New South Wales, Australia đánh giá: "Ông ấy là một nhân vật huyền thoại và anh hùng của Việt Nam".

Còn trong Từ điển bách khoa toàn thư Pháp, mục từ về Võ Nguyên Giáp viết: "Là người tổ chức quân đội nhân dân, ông Giáp đã thực hiện được một sự tổng hợp độc đáo các học thuyết quân sự mácxít kết hợp nhuần nhuyễn với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp. Võ Nguyên Giáp đã chứng minh rằng ông có những đức tính ngoài tầm cỡ bình thường trên mọi lĩnh vực lớn của cuộc chiến tranh". 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Từ làng An Xá đến Điện Biên Phủ