Chiến tranh mang theo đau thương và mất mát nhưng chiến tranh cũng dệt nên biết bao nhiêu câu chuyện nghĩa tình ấm áp. Một thanh niên người dân tộc Mường,
Một thanh niên người dân tộc Mường, Ninh Bình có mặt tại Biển Hồ Pleiku trong đêm lửa đạn đầy trời Giao thừa Tết Mậu Thân 1968 khiến cả cuộc đời ông gắn bó máu thịt với vùng đất này, với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, là một câu chuyện đầy ắp ân tình như thế. Ông được bà con nơi đây gọi theo tiếng Gia Rai là Ơi IaNuêng - Ông già Biển Hồ.
Lời hứa đêm giao thừa
Sinh ra và lớn lên ở làng Xích Thổ, bên con sông Hoàng Long, Ninh Bình, khi vào tuổi thanh niên, Quách Ngọc Hoan - chàng thanh niên dân tộc Mường tuổi Tân Tỵ (1941) theo bạn bè đi thanh niên xung phong. Không ngờ chiến tranh kéo ông đi miết khắp chiến trường ba nước Đông Dương cuối cùng trở thành một ông già Tây Nguyên thực thụ, sống chết với đồng bào Tây Nguyên, gắn bó với họ như những người ruột thịt.
Tiếp chúng tôi dưới tán cây um tùm trong căn nhà sát bên Biển Hồ ở thành phố Pleiku, ông cho hay, ông sống ở đây mấy chục năm rồi. Ông có bốn người con đều thành đạt, vợ con ở trong thành phố, ông sống một mình nhưng không cô đơn vì có quá nhiều người hàng ngày tìm đến ông.
Ngược dòng thời gian, ông kể cho chúng tôi nguyên do dẫn dắt ông định cư nơi Biển Hồ được người ta ví như “đôi mắt Pleiku” này. Đó là gần Tết Mậu Thân năm 1968, ông ở bộ phận hậu cần của Bộ Tư lệnh mặt trận B3, nhiệm vụ rất đa dạng, làm giao liên, phụ công binh gỡ bom mìn, cáng thương, phụ nhà bếp lo bữa ăn cho đơn vị. Khi tiếng súng đồng loạt nổ ra cũng là phút giao thừa, khiêng thương binh trong tiếng đạn bắn, pháo nổ của cuộc giao tranh ông thấy khu rừng âm u bỗng sáng rực, đạn pháo bắn lên trời như pháo hoa mà khi đó Quách Trọng Hoan chưa bao giờ được thấy. Giữa lúc bom đạn sinh tử ông nhìn thấy vùng Biển Hồ đẹp đẽ lạ lùng. Một vùng trời nước mênh mông, xung quanh là rừng thông hùng vĩ và lung linh dưới ánh sáng đạn pháo. Không biết sống chết thế nào, bất chợt ông nói thầm: Nếu may mắn được sống sót thì sau chiến tranh nhất định mình sẽ trở lại nơi này. Nhất định sẽ trở lại.
Năm 1974 trở về quê lấy vợ, năm 1978 ông dẫn gia đình vào Nam đi kinh tế mới. Ông kể: Ông bố tôi thì muốn tôi ở Đồng Nai vì xưa các cụ vẫn nói “Làm trai cho đáng lên trai/ Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng”. Tôi cũng muốn bố tôi vui nhưng cuối cùng Tây Nguyên vẫn níu kéo và tôi không thể không trở lại Tây Nguyên. Gia đình tôi sống tại thành phố Pleiku, nhưng tôi vẫn tìm cơ hội để được sống bên Biển Hồ. Năm 1988, khi mua được mảnh đất này, vợ con không chịu lên, tôi quyết định một mình thực hiện ước mơ, hay nói cách khác là thực hiện lời nguyền giữa đêm giao thừa bom đạn năm đó.
Ông nổi tiếng là người đã cứu sống nhiều người vô tình ngã xuống hay có ý định tự tử ở Biển Hồ, nơi có diện tích mặt nước đến 250 ha này. Danh tiếng đồn xa, ông cũng nổi tiếng là người đã vớt xác giỏi, khắp vùng đều có dấu ấn của ông. Ông cũng đã vớt rất nhiều người xấu số thiệt mạng ở Biển Hồ.
Nhưng trong buổi gặp gỡ hôm ấy, tôi không muốn ông kể về những chuyện đó, mà muốn ông kể về những chuyện tình, tình nghĩa, tình yêu mà ông đã trải qua để trở thành một thành viên tin cậy của bà con các dân tộc nơi đây.
Ngọn núi Chư Hoan
Cả đời ông gắn bó với Tây Nguyên nên chuyện tình, chuyện nghĩa ông kể cả ngày không hết. Ông có đến hơn 200 con nuôi, anh em kết nghĩa. Ông được bà con dân tộc Gia Rai gọi là Ơi IaNuêng – Ông già Biển Hồ. Còn Bà con còn lấy tên ông đặt cho một ngọn núi.
-Nghe nói đồng bào lấy tên bác đặt cho một ngọn núi là sao bác?
-À, đó là do giai đoạn 1978-1982, tôi công tác ở Ban định canh định cư tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Lúc đó vẫn còn Fulro, tôi được phân công về vùng Ia Grai, Chư Păh để vận động bà con không nghe theo kẻ xấu, chống Fulro. Tôi đóng vai một người Gia Rai, lên ngọn núi ở buôn Bàng, xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh để khai hoang, trồng lúa rẫy, trồng bắp như một người dân thường để tiếp cận với đồng bào.
Chỗ đó xưa có hổ dữ nên không mấy ai dám khai hoang, khi ông đến thì hổ đã bỏ đi nên ông yên tâm dựng lán. Bà con qua lại, dần dà thân thiết với ông. Ông nói được tiếng Gia Rai như bà con bản địa, tiếng Ba Na ông cũng nói được một ít nên chẳng ai nghi ngờ ông không phải người địa phương. Cùng Công an và bộ đội, ông xác định chắc chắn đối tượng cầm đầu Fulro với quân hàm trung tá là Rơ Châm Loăk. Ông kiên trì vận động, cuối cùng thuyết phục được chính vợ của Rơ Châm Loăk hợp tác. Biết được thông tin ngày giờ Rơ Chăm Loăk về thăm vợ con, ông báo cho lực lượng chức năng… Rơ Chăm Loăk về, vợ anh ta nói: Anh lúc nào cũng chui lủi như con hươu con nai trong rừng, khổ quá. Ở nhà vợ con cũng lo sợ lắm, anh về đầu thú đi. Rơ Chăm Loăk nói: Không được đâu, về thì sẽ bị giết đó. Người vợ đã được giác ngộ nói rằng anh về sẽ không ai giết anh cả, vừa nói cô vợ vừa tháo khẩu súng trên vai chồng quăng ào ra suối và túm lấy mớ tóc của chồng ghì xuống nền nhà. Bị bất ngờ, Rơ Chăm Loăk không kịp phản ứng, Công an và bộ đội ập vào… Sau khi Rơ Châm Loăk bị bắt, cả đường dây Fulro lần lượt ra đầu thú. Không gia đình nào còn phải nơm nớp lo con em mình đang trốn chui trốn lủi bị bắt, bị giết nữa, dân làng rất vui mừng. Rơ Chăm Loăk cũng chỉ phải đi học tập cải tạo 3 tháng rồi về. Dân làng nhớ đến ông, đã đặt tên ngọn núi nơi ông từng sống và làm rẫy là Chư Hoan. Chư theo tiếng Gia Rai, Ê Đê là núi.
Biển Hồ nhìn từ nhà ông Quách Ngọc Hoan
Bây giờ Rơ Châm Loăk trở thành một người giàu có nhờ cà phê, làm Chủ tịch Mặt trận tổ quốc của buôn và là người bạn thân thiết của ông Hoan.
-Tôi đang ủ ghè rượu ngon để mấy hôm nữa mang vào thăm anh Rơ Chăm Loăk đây. Hôm nọ có nhà báo gặp Rơ Chăm Loăk, anh ấy nhắn mời tôi vào vì nhớ tôi quá mà anh ấy không đi được xe máy- ông Hoan hỉ hả nói.
Câu chuyện lan man, chuyện này sang chuyện khác, ông kể: Con Ksor Vit làng Tút 1 bên Chư Păh, năm đó nó 16 tuổi, bị bỏng không khỏi, người hôi thối lắm nên một lần nó nhảy xuống sông Pô Cô, hai lần nhảy xuống suối tự tử mà không chết. Bố nó đưa xuống bảo tôi cứu nó. Tôi nói bệnh này phải đi bệnh viện. Vậy là tôi đưa hai bố con nó xuống Bệnh viện tỉnh gặp bác sĩ Măng Đung, giám đốc bệnh viện. Măng Đung khám bệnh, cho thuốc và một cuốn sách hướng dẫn về cách uống thuốc, lau rửa vết thương. Khi về đến lán gần buôn thì nó kêu mệt, muốn nghỉ lại ở lán rồi về sau. Bố về khỏi thì nó tự uống hết tất cả thuốc, nó muốn tự tử một lần nữa. Nhưng lần này nó cũng không chết, bốn ngày sau nó ngồi dậy đòi uống nước. Cho uống nước xong, bố mẹ nó vội bắt gà nấu cháo cho nó ăn. Thế là hết bệnh, bây giờ nó có chồng và bốn đứa con trai rồi. Ông kể và cười tươi rói.
Anh bạn tôi ở Pleiku thân thiết với Ông già Biển Hồ vì là bạn học với con ông nói: Bác kể chuyện Rơ Chăm Nul đi. Ông già cười hiền, chuyện đó thường mà… Rơ Chăm Nul rất nghèo lại bị cụt mất hai chân và một tay vì cưa bom đạn khi buôn phế liệu. Nhà anh ta lại có mẹ già và con nhỏ nên cuộc sống chật vật vô cùng. Ông có mảnh đất vốn là nghĩa trang cũ đã dời hết mồ mả, ông thuê cày lại phẳng phiu để cho bà con dân tộc nghèo, ai không có đất thì đến đó canh tác. Ai làm thì ông hỗ trợ ít gạo và hạt giống.
-Rơ Chăm Nul đến trồng rau, nuôi gà vịt lấy kế sinh nhai, nhưng anh ta không làm được, lại quay về buôn rồi. Nó vẫn nghèo khổ lắm. Bây giờ, khi có quà từ thiện của bà con các nơi nhờ tôi phân phát, bao giờ Rơ Chăm Nul cũng đứng đầu danh sách.
Con nuôi, anh em nuôi của ông là thế. Nhiều đứa chán đời định tự tử, ông cứu rồi khuyên giải nên thành con nuôi, có đứa vì nghèo khó ông giúp đỡ mà gắn bó. Ông sống đơn sơ, bình dị, những đồng tiền dành dụm được ông để làm việc tình nghĩa. Nhiều người trong vùng đồng bào thiểu số quá nghèo, ông giúp đỡ họ, có khi ông dành tiền lo vợ cho một đứa con nuôi mồ côi… Ông tìm thấy niềm vui trong những việc làm tình nghĩa ấy. Cũng vì thế mà đồng bao nơi đây thương ông, kính trọng ông.
-Trong chiến tranh, tôi được bà con bên Lào, đồng bào Tây Nguyên bao bọc, cưu mang nhiều lắm, ơn trả không hết đâu. Ông nói như giải thích cho chúng tôi hiểu vì sao ông gắn bó với đồng bào đến thế.
Ông già Biển Hồ trò chuyện với tác giả
Ông kể: Trong chiến dịch mà Mỹ gọi là Gian-xơn Xi-ty năm 1967 đó, tôi và anh Rơ Chăm Bo được phân công chặn hậu một đoàn xe tăng và xe bọc thép. Đoàn xe dài như một con rết. Khi xe đi đầu chưa tới điểm đến thì phía cuối, anh Rơ Chăm Bo trèo lên một cái cây và phụt trái B41 vào đoàn xe, một xe tăng và một xe bọc thép bốc cháy. Khi đó tôi chưa biết người ta bắn B41 như thế nào, thấy lửa phụt ra trên cây và anh Rơ Chăm Bo rơi xuống tôi hiểu là anh ấy đã bị bắn chết, thế là tôi chạy, cắm đầu cắm cổ chạy dọc theo con suối, súng trên các xe của đối phương bắn xuống như vãi đạn. Tôi chạy mãi rồi kiệt sức, tôi cố gắng ăn một con cá suối chết do đạn pháo và nằm cho nước chảy vào miệng rồi lịm đi. Mãi đến chiều, một người đàn ông đi qua mới lay gọi tôi dậy. Lúc nó quần áo trên người tôi đã bay hết, ông ấy cắt đôi cái khố của mình, quấn cho tôi một nửa và dẫn về nơi dân làng đang sống. Đến nơi, bà con xúm vào chăm sóc, rửa vết thương cho tôi và cho ăn cháo nhái để có thêm dinh dưỡng. Các bà mẹ nhai lá rừng để đắp lên các vết thương trên người tôi. Lá thuốc làm thân thể tôi đen kịt trong mấy ngày.
Khi tôi khỏe trở lại, ông già lại dẫn tôi về đơn vị. Tôi báo cáo là Rơ Chăm Bo đã hy sinh… Mọi người reo lên gọi Rơ Chăm Bo, anh ta ôm chầm lấy tôi vừa khóc vừa cười vì cũng nghĩ là tôi đã chết.
Mối tình Mainivon và 100 bài thơ tình
Hỏi chuyện tình yêu trai gái, hỏi mối tình nào khiến ông nhớ nhất, ông nói tôi được nhiều chị em yêu mến nhưng với tôi tình yêu nó thiêng liêng như ngôi sao trên trời, tuyệt đối không thể dễ dãi. Suốt thời chiến tranh tôi có hai mối tình dang dở nhưng không thể nào quên được, mối tình đầu với một cô gái Lào và mối tình thứ hai với một cô gái xinh đẹp ở Ninh Bình.
Hồi đó, Quách Trọng Hoan từ chiến trường trở về nhận công tác quản lý Trường Đoàn của tỉnh Hà Nam Ninh, trường có đến 700 đoàn viên nữ. Chị em phụ nữ vây quanh nhưng anh chỉ quan tâm đến Đào Thị Hồng Tơ, cô gái xinh đẹp nhất, hoa khôi của trường, nhưng không có cơ hội nói ra vì quanh cô không thiếu vệ tinh.
Một lần mọi người cùng đứng ở sân nhìn ra vách núi thấy mấy con chim đậu trên mỏm đá. Một cô gái nói: Thách anh Hoan bắn được con chim đó. Hoan nói cứng, nếu tôi bắn được thì sao? Mấy cô cười khúc khích và nói: Anh mà bắn trúng thì muốn thưởng gì cũng được. Được rồi, anh bắn trúng thì phải gả cô Tơ cho anh nhé – Hoan liều nói mà cô Tơ mặt đỏ bừng rồi nói: Đồng ý... Anh giơ súng lên, thật tình là đạn không trúng con chim nhưng trúng vách đá khiến một miếng đá văng ra trúng con chim, con chim rớt xuống trong sự thán phục của mọi người.
Từ hôm đó, mỗi ngày Hoan làm một bài thơ gửi tặng Tơ. Có đến cả 100 bài được chép trong sổ thơ của ông. Thơ mộc mạc nhưng nồng nàn, say đắm. Một hôm Hiệu trưởng gọi lên nói: Tôi biết anh và cô Tơ yêu nhau nhưng cô Tơ là người Công giáo, cô ấy sẽ có nhiều nhiệm vụ quan trọng hơn, nên nếu lấy anh thì hôn nhân ảnh hưởng đến nhiệm vụ của cô Tơ mà tổ chức đang xây dựng. Vì thế, chúng tôi mong anh chia tay cô ấy, chúng tôi sẽ tạo điều kiện để anh xa cô ấy.
Nghe cấp trên nói, anh choáng váng như đất dưới chân mình sụt xuống… Nhưng dù sao cũng phải chấp hành. Thế là theo sự phân công của tổ chức, Quách Trọng Hoan được cử đi học lớp Bổ túc công nông và năm 1968 được học Đại học Kinh tế kế hoạch, năm 1974 anh tốt nghiệp.
Mối tình sâu nặng trước đó của ông gắn bó với Savanakhet Lào. Hồi đó, ông được phân công phụ trách bến phà Tà Khống, chuyên chở bộ đội, lương thực, thực phẩm… vào Nam ra Bắc, đây là một trong những trọng điểm ác liệt nhất tuyến đường 9 - Nam Lào. Một lần Quách Trọng Hoan bị ốm phải nằm bẹp một chỗ nên rất buồn. Thấy vậy, Đại đội trưởng nói: Em có biết săn thỏ, săn gà rừng không? Lấy mấy viên đạn vào rừng săn cho nó vui. Hoan lấy 3 viên đạn, xách súng vào rừng, thấy thấp thoáng một con heo, Hoan bám theo, nó chạy thì đuổi. Khi đã đến gần, anh nổ luôn ba phát súng. Con heo rừng to tướng bị hạ. Lúc đó mới thấm mệt, anh lê lết về đơn vị gọi anh em ra khiêng heo.
Cơn sốt bất chợt lại kéo đến, người sốt sình sịch, Đại đội trưởng phải cõng Hoan trên lưng để đi tìm con heo. Con heo được khiêng về trong sự vui sướng của cả đơn vị. Lúc đó chiến tranh ác liệt, đời sống anh em rất kham khổ nên con heo rừng mang đến cho cả đơn vị bữa đại tiệc.
Hôm sau, có ba người Lào tìm đến đơn vị, họ đi tìm con heo. Họ nói đó là con heo của bé Manivon này, họ chỉ vào cô gái bẽn lẽn, “nó chăm từ khi con heo còn nhỏ đến giờ”… Đại đội trưởng cho gọi Hoan lên, anh em thành thật xin lỗi đồng bào vì cứ nghĩ đó là heo rừng nên bắn nhầm. Bà con nói: Thôi thì lỡ rồi, bộ đội đền cho bà con một bao muối là được. Đại đội trưởng nghe vậy mừng quá lệnh cho anh Hoan dẫn đồng bào đi lấy muối. Hồi đó đơn vị có một xe muối lâu nay bị sa lầy bên bờ suối. Anh Hoan nói đồng bào về gọi mọi người ra gùi muối đi, đồng bào cứ lấy cho đủ, không chỉ hạn chế một bao đâu. Bà con sướng quá, nhà nào cũng ra gùi muối. Hoan trở thành ân nhân của bà con.
Manivon khi đó 17-18 tuổi, xinh tươi như bông hoa pơ lang, suốt ngày quanh quẩn bên Quách Trọng Hoan. Anh ở trong căn hầm chữ A, hàng ngày cô mang ra hầm cơm nếp, cá suối nướng, thịt heo cho anh bồi dưỡng. Mối tình của họ cứ ngày càng sâu nặng, năm đó anh 25 tuổi, anh hứa hết chiến tranh sẽ cưới Manivon và đưa cô về Việt Nam.
Tâm sự với Đại đội trưởng, ông nói: Không được đâu Hoan ơi, chết đấy. Hồi chống Pháp, tớ có nghe kể về một ông tên là Hồ Du Tử yêu một cô dân tộc nên bị xử bắn vì tội vô kỷ luật, yêu đương bất chính. Nghe Đại đội trưởng nói Hoan sợ phát khiếp. Suốt đêm ấy trong hầm chữ A, Hoan thao thức không ngủ, anh cầm trên tay chiếc khăn Manivon thêu rất cầu kỳ để tặng anh mà đau xót, vừa thương mình, vừa thương người yêu.
Sáng hôm sau, Đại đội trưởng gọi Hoan lên, anh chuẩn bị nghe bài giáo huấn thì hóa ra không phải. Sau một đêm suy nghĩ Đại đội trưởng hỏi: Đồng chí có thật sự yêu cô Manivon không? Hoan gật đầu lia lịa nói: Báo cáo thủ trưởng, em yêu cô ấy chân thành ạ. Em muốn cưới cô ấy và đưa về quê em ạ… Thôi được rồi, tớ hiểu, đồng chí cứ tiếp tục duy trì tình cảm, khi điều kiện chín muồi đơn vị sẽ tổ chức cho đồng chí, không phải chờ đến khi kết thúc chiến tranh. Anh sung sướng như muốn bay lên để báo tin cho Manivon…
Nhưng chiến tranh không ai học được chữ ngờ. Một đêm cuối tháng 10-1966, sau khi chở bộ đội qua sông, anh cùng một đồng đội cột phà vào một gốc cây rồi cả hai ngủ vùi vì quá mệt sau một ngày căng thẳng. Đêm đó, mưa rừng liên miên làm sạt lở bờ suối, kéo đổ cây khiến con phà cứ thế trôi lênh đênh trên dòng sông Amahiên sang tận Campuchia. Tạnh mưa, họ bàng hoàng thấy xung quanh là cánh đồng xanh mướt, không còn núi, không còn rừng. Họ đã đi xa cách Tà Khống mấy trăm cây số. Từ đó, không có dịp trở lại đất Lào, Hoan ôm theo mối ân hận là không gặp lại được Manivon, không được nói với cô một lời.
Trọn nghĩa vẹn tình
Sát bên bờ Biển Hồ, trên thửa đất của mình, ông Hoan xây một ngôi đền nhỏ, có tên là Đền Vạn Linh, để linh hồn những người chết đuối nơi Biển Hồ cũng như linh hồn những người đã từng chết, từng an táng nơi đây có chỗ hương khói.
Bên cạnh ngôi đền là một cây to như một cây đa, trên đó có bậc thang tre và chỗ ngồi như đài quan sát. Tôi tò mò hỏi, ông Hoan giải thích: Ồ, tôi gọi đó là “đài cử nhân”, tôi làm năm 1999. Hồi đó con gái út của tôi ôn thi đại học nên vào ở với tôi cho yên tĩnh, tôi làm cái đó cho cháu có chỗ ngồi học. Sau đó cháu đỗ đại học và bây giờ làm cán bộ ngân hàng dưới thành phố. Ông ngắm nghía công trình với vẻ tự hào.
Niềm tự hào của ông thật chính đáng, không phải chỉ ở những thành công của con cái, mà tôi nghĩ, cái đáng tự hào của ông là ở chỗ ông dám đi đến tận cùng ước mơ thời trai trẻ binh lửa của mình. Ông sống hết mình, yêu hết mình với mảnh đất và con người nơi đã cưu mang ông và các đồng đội của ông. Cuộc sống của ông bây giờ thật đơn sơ nhưng ông rất giàu có, tài sản lớn nhất đời ông là sự yêu thương, trân quí của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên dành cho ông.
Năm 2011, ông Quách Ngọc Hoan vinh dự được nhận giải thưởng Kova do nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ký. Đây là một giải thưởng lớn tôn vinh những tấm gương tiêu biểu trong đời sống xã hội có những việc làm nhân văn, cao thượng, qua đó, nhằm nhân rộng hơn nữa các nghĩa cử này, góp phần làm cho cuộc sống ngày càng tươi đẹp. |