Tiếp tục chương trình làm việc Phiên họp 46, chiều 10/6, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về báo cáo giải trình, tiếp thu dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (BLHS).
Kế thừa tinh thần thu hẹp dần hình phạt tử hình
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Thượng tướng Lê Quốc Hùng, Thứ trưởng Bộ Công an cho biết, việc Chính phủ đề xuất giảm số lượng tội danh có hình phạt tử hình nhằm tiếp tục thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về thu hẹp hình phạt tử hình, trên cơ sở kế thừa tinh thần thu hẹp dần hình phạt tử hình trong BLHS qua các lần sửa đổi, bổ sung.
Theo đó, tại BLHS năm 1985 có 44 tội có hình phạt tử hình; đến BLHS năm 1999 còn 29 tội có hình phạt tử hình. BLHS sửa đổi năm 2009 còn 22 tội có hình phạt tử hình; đến BLHS năm 2015 chỉ còn 18 tội có hình phạt tử hình.
Theo Thứ trưởng Bộ Công an, lần sửa đổi này, Chính phủ đề xuất bỏ 8 tội danh có hình phạt tử hình trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; tầm quan trọng của khách thể được bảo vệ; khả năng khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; căn cứ kết quả tổng kết công tác thi hành BLHS, nhiều tội danh có quy định hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế thời gian qua.
Bên cạnh đó, tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hiện nay, xu hướng về việc giảm hình phạt tử hình trong quy định của pháp luật cũng như thực tế thi hành trên thế giới là phổ biến. Trong 193 quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc, chỉ còn hơn 50 quốc gia quy định về hình phạt tử hình.
Việc đề xuất bỏ 8 tội danh có hình phạt tử hình cũng căn cứ trách nhiệm, nghĩa vụ của Việt Nam khi là thành viên của các điều ước quốc tế có liên quan, đặc biệt Điều 6 Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị xác định: "Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất".
Đề xuất này cũng phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế của nước ta, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang mở rộng hợp tác quốc tế một cách sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, việc xây dựng hệ thống pháp luật tương đồng với đa số các nước trên thế giới sẽ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy các quan hệ hợp tác ngày càng bền chặt và tin tưởng lẫn nhau. Đồng thời, dựa trên trách nhiệm, năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Chính sách hình sự nghiêm khắc với tội phạm ma túy
Đáng chú ý, theo Thứ trưởng Lê Quốc Hùng, đối với tội Tham ô tài sản và tội Nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, nhằm bảo đảm thu hồi tài sản do phạm tội mà có, đồng thời khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo trong quá trình giải quyết vụ án, dự thảo luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 63 theo hướng: "Người bị kết án tù chung thân về tội Tham ô tài sản, tội Nhận hối lộ chỉ có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt khi đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn".
Về việc bổ sung tội sử dụng trái phép chất ma túy trong dự thảo luật, theo Thứ trưởng Lê Quốc Hùng, quy định tại điều luật này chỉ xử lý đối với những người đang trong quá trình cai nghiện hoặc vừa kết thúc quá trình cai nghiện ma túy mà tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy. Mục đích của việc này là thực hiện chủ trương áp dụng chính sách hình sự nghiêm khắc hơn để giảm cầu ma túy, chặn đứng mối quan hệ cung, cầu ma túy. Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy thấy rằng, hiện nay, tình hình nghiện ma túy diễn ra rất phức tạp, số người nghiện ma túy đang có xu hướng gia tăng; ma túy là một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến các loại tội phạm khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản... Người sử dụng trái phép chất ma túy rơi vào tình trạng "ngáo đá", phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như giết người, hiếp dâm… có chiều hướng gia tăng.
Theo thống kê người sử dụng trái phép chất ma túy phạm tội, trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2018 đến hết ngày 31/5/2025, tỷ lệ tội phạm do người sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện chiếm khoảng 10% trên tổng số tội phạm được phát hiện; trong đó, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỷ lệ 5,3%. Đặc biệt, tội phạm giết người do người nghiện chất ma túy và người sử dụng trái phép chất ma túy gây ra trong thời gian này là trên 200 vụ, trong đó có trên 40 vụ giết người thân trong gia đình. Pháp luật hiện hành đang quy định xử lý về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội danh này chủ yếu là đối với người tàng trữ để sử dụng. Như vậy, một người sau khi mua chất ma túy để sử dụng, nếu chưa kịp sử dụng mà bị phát hiện thì bị xử lý về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, còn nếu đang hoặc đã sử dụng thì lại không bị xử lý về hành vi tương ứng.
Thực tiễn cho thấy, hiện nay, số người sử dụng trái phép, nghiện ma túy đang có xu hướng trẻ hóa, một bộ phận giới trẻ dễ bị rủ rê, lôi kéo vào con đường sử dụng trái phép chất ma túy, tìm tới ma túy để giải tỏa áp lực trong cuộc sống; nhiều người coi sử dụng ma túy như một cách để thể hiện bản thân… Nếu không có biện pháp "giảm cầu" hữu hiệu thì nguy cơ về việc ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động và giống nòi là vấn đề nhức nhối đang được đặt ra. Do vậy, Cơ quan soạn thảo cũng chỉnh lý quy định mức hình phạt khởi điểm đối với 3 tội: Sản xuất trái phép chất ma túy; Vận chuyển trái phép chất ma túy và Mua bán trái phép chất ma túy từ 2 năm tù thành 3 năm tù, để bảo đảm tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tương quan với mức hình phạt khởi điểm đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là 3 năm tù.
Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự nỗ lực, khẩn trương, nghiêm túc của Chính phủ, Bộ Công an và các bộ có liên quan trong việc chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật trên cơ sở tiếp thu tối đa ý kiến của đại biểu Quốc hội, giải trình cụ thể các vấn đề đại biểu nêu ra.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đánh giá cao Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đã rất trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với Bộ Công an và các cơ quan có liên quan để nghiên cứu, tiếp thu, giải trình, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật, bảo đảm chất lượng trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến theo đúng chương trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chuẩn bị nội dung để trình Quốc hội xem xét, biểu quyết vào cuối Kỳ họp thứ Chín. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành với đề xuất của Chính phủ và báo cáo ý kiến của cơ quan chủ trì thẩm tra về các nội dung đã được các cơ quan thống nhất tiếp thu, chỉnh lý.