Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về các quyền con người, quyền công dân, BLHS năm 2105 đã có nhiều điểm mới đề cao quyền con người, quyền công dân...
Nhằm loại trừ trách nhiệm hình sự; miễn trách nhiệm hình sự; tha tù trước thời hạn có điều kiện cho các đối tượng khi có vi phạm.
Đề cao quyền con người, quyền công dân
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS. Hình phạt do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đã phạm tội. Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị các đối tượng phạm tội mà còn giáo dục ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, có tác dụng giáo dục mọi người tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Hình phạt không bao giờ chỉ là mục đích trừng trị mà luôn luôn song hành với mục đích giáo dục; trong một số trường hợp, việc áp dụng hình phạt chỉ là bất đắc dĩ nếu như không còn cách áp dụng khác. Đặc biệt việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi thì càng phải coi trọng mục đích giáo dục của hình phạt. Nếu xét thấy không cần áp dụng hình phạt thì Tòa án có thể miễn trách nhiệm hình sự để áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục khác có lợi hơn cho các đối tượng này.
Nhằm đề cao quyền con người, quyền công dân, khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định “Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” đã thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức lý luận và tư duy lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân. Điểm nhấn của nội dung này là việc khoản 2, Điều 14 của Hiến pháp bổ sung nguyên tắc “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Đây chính là điều kiện để bảo đảm hiện thực quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự minh bạch, lành mạnh giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa Nhà nước với con người và phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên; hạn chế tối đa bất cứ sự lạm dụng hay tùy tiện nào tước đi hoặc hạn chế các quyền và tự do vốn có của mọi người bởi các cơ quan nhà nước. Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về các quyền con người, quyền công dân, BLHS năm 2105 đã có nhiều điểm mới nhằm loại trừ trách nhiệm hình sự; miễn trách nhiệm hình sự; tha tù trước thời hạn có điều kiện cho các đối tượng khi có vi phạm.
Những trường hợp được loại trừ, miễn, giảm trách nhiệm hình sự
Về những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự bao gồm: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 20 BLHS 2015). Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiên hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 21). Điều 22 về Phòng vệ chính đáng quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích trên; phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Ngoài ra, khoản 1 Điều 23 cũng quy định hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Một phiên tòa hình sự
Đặc biệt, Điều 24 BLHS năm 2015 quy định về việc gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội thì không phải chịu trách nhiệm hình sự- đây là một điều luật mới về loại trừ trách nhiệm hình sự nhằm bảo vệ, khuyến khích việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Hành vi gây thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm (Điều 25) - quy định mới này nhằm khuyến khích sáng tạo trong việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Ngoài ra, việc thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26) quy định: Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này (đó là những trường hợp phạm tội do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên trong các tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược, tội chống loài người và tội phạm chiến tranh). Tuy nhiên, điều luật không quy định rõ gây thiệt hại ở mức độ nào thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với người ra mệnh lệnh; quy định không cụ thể, rõ ràng sẽ rất khó cho việc áp dụng trong thực tiễn.
Về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29 BLHS 2015) quy định người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nếu: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội; khi có quyết định đặc xá; người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác vả được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hỉnh sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy, Điều 29 là một quy định rất mới nhằm thu hẹp phạm vi xứ lý hình sự đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng được thực hiện do lỗi vô ý.
Về tha tù trước thời hạn có điều kiện quy định tại Điều 66, BLHS 2015 đây là một chế định lần đầu tiên được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam. Quy định này được đánh giá cao bởi tính chất nhân văn, khoan hồng, nhân đạo của chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Theo đó, người đang chấp hành án phạt tù có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện như: phạm tội lần đầu; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; có nơi cư trú rõ ràng; đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự; đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức thời hạn tù đối với hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn. Đối với trường hợp người phạm tội là thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì thời gian đã chấp hành ít nhất là một phần ba hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.