Bảo vệ người gửi tiền trong bối cảnh thực thi CPTPP

TS.Nguyễn Minh Phong/Ths.Nguyễn Trần Minh Trí| 04/02/2019 07:48
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Việc tự do hóa dịch vụ tái bảo hiểm theo tinh thần của Hiệp định CPTPP sẽ mang lại nhiều cơ hội và thách thức mới cho vấn đề bảo hiểm tiền gửi của hệ thống ngân hàng Việt Nam...

Chiều ngày 12/11/2018, Quốc hội nước ta đã biểu quyết với tỷ lệ 100% đồng ý thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên quan. Như vậy, theo quy định, ngày 19/1/2019, CPTPP sẽ chính thức có hiệu lực với Việt Nam, mở ra nhiều kỳ vọng và cả thách thức mới.

CPTPP được coi là Hiệp định thương mại tự do lớn thứ ba thế giới hiện nay; CTPP với tổng dân số 500 triệu người, tổng GDP vượt trên 10.000 tỉ USD, chiếm khoảng 13,5% GDP toàn cầu và khoảng 14% tổng thương mại thế giới (so với TPP gồm 800 triệu dân, 40% GDP và hơn 30% thương mại toàn cầu).

Kế thừa tinh thần TPP, CPTPP là Hiệp định có những tiêu chuẩn cao, tham vọng, toàn diện và cân bằng với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ tạo ra và duy trì việc làm; tăng cường đổi mới, năng suất, và sức cạnh tranh; nâng cao mức sống; giảm đói nghèo ở các nước ký kết; đồng thời thúc đẩy quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao động, bảo vệ môi trường. Mục tiêu cuối cùng là mở cửa thương mại và hội nhập cho toàn khu vực. Việc ký kết, thực thi và khai thác CPTPP, cùng với các FTA khác, được kỳ vọng sẽ kéo theo những chuyển dịch mới cả về kinh tế và địa chính trị khu vực và thế giới…!

CPTPP là kết quả sự nỗ lực vượt qua chính mình của 11 thành viên TPP, khẳng định xu hướng tiếp tục của tự do hóa thương mại đầu tư quốc tế và gửi đi thông điệp mạnh mẽ về sự cấp thiết và quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, tạo thuận lợi cho phát triển thương mại và tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Hiệp định CPTPP có mức độ cam kết cao và sẽ có hiệu lực từ 31/12/2018. CPTPP khi có hiệu lực sẽ thúc đẩy xu hướng hợp tác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương; đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia và tác động toàn diện về chính trị, an ninh quốc gia, chiến lược đối ngoại, kinh tế, xã hội của nước ta.

Các cam kết thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính của CPTPP hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở các nước thành viên, trong đó có Việt Nam gồm: Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài;  Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm đảm bảo đầy đủ lợi ích của các nhà đầu tư; Đảm bảo không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định.

So với cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa bổ sung đối với một số loại hình dịch vụ mới như: Mở cửa dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; Dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng;  Mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới.

Như vậy, tự do hóa tài chính trong khuôn khổ CPTPP rất cao dù các nước thành viên được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình, bao gồm những quy định ngoại lệ mà các quốc gia thành viên xem xét một cách thận trọng và những quy định ngoại lệ về các biện pháp không phân biệt đối xử trong quá trình thiết lập và thực thi các chính sách tiền tệ hay các chính sách khác.

Bảo vệ người gửi tiền trong bối cảnh thực thi CPTPP

Ảnh minh họa

Việt Nam cũng như các nước được áp dụng các ngoại lệ cần thiết, gồm các biện pháp thận trọng bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm đảm bảo môi trường đầu tư ổn định, an toàn. Thực thi CPTPP, trong đó có các cam kết về dịch vụ tài chính nêu trên sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cạnh tranh tại Việt Nam, từ đó thu hút, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh doanh tại Việt Nam khi môi trường kinh doanh được đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và không phân biệt đối xử.

Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được đảm bảo khi tham gia cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường các thành viên khác; giúp cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hình thành và thấm nhuần văn hóa cạnh tranh, nâng cao nhận thức về cạnh tranh lành mạnh và có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tạo điều kiện nâng cao trình độ và năng lực của cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam thông qua các cơ chế về hợp tác, trao đổi thông tin, tham vấn về những vấn đề liên quan đến cạnh tranh giữa các nước thành viên trong quá trình thực thi cam kết.

Thực thi CPTPP cũng đặt ra thách thức đối mặt với nhiều vụ việc cạnh tranh có tính chất phức tạp, hành vi phản cạnh tranh đa dạng và tinh vi trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng trong thời gian tới. Đồng thời, thách thức cũng đến từ những hạn chế của Việt Nam, như: Thị trường vốn có quy mô còn quá nhỏ, thanh khoản yếu, thiếu hấp dẫn, chưa đủ khả năng thu hút mạnh các dòng vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các dòng vốn lớn; Quy mô vốn của thị trường tiền tệ còn chưa tương xứng, nhất là quy mô vốn của hệ thống NHTM còn nhỏ; Quy mô thị trường bảo hiểm còn ở mức khá nhỏ, tỉ lệ doanh thu phí trên GDP mới chỉ đạt mức xấp xỉ 2% so với mức trung bình 3,2% trong khu vực ASEAN và 6,5% trên toàn thế giới; Tồn tại tình trạng mất cân đối giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ dễ dẫn đến nguy cơ mất thanh khoản của ngân hàng.; Nợ xấu và xử lý nợ xấu còn nhiều bất cậ; Lòng tin vào quản trị và chất lượng dịch vụ hệ thống NHTM còn thấp; Mất cân đối về cấu trúc giữa thị trường cổ phiếu và trái phiếu; Mất cân đối giữa hoạt động tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng; Mất cân đối giữa thị trường vốn ngắn hạn và dài hạn; Bất hợp lý về cơ cấu giữa tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư; Trình độ thị trường còn ở mức thấp, ý thức tuân thủ luật pháp còn hạn chế, chế tài xử lý vi phạm chưa có tính răn đe cao. Các tác động sâu của CPTPP đến nền kinh tế sẽ tùy thuộc vào sự chuẩn bị và khả năng khai thác tính hai mặt trong quá trình triển khai Hiệp định này của Việt Nam…

Với tinh thần đó, Quốc hội đã giao Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan hoàn thành thủ tục phê chuẩn Hiệp định CPTPP và thông báo thời điểm có hiệu lực đối với Việt Nam. Các tổ chức, cơ quan có liên quan rà soát các dự án luật, văn bản pháp luật khác để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định CPTPP. Thủ tướng chịu trách nhiệm phê duyệt và chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan ở trung ương và địa phương triển khai kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP. Chính phủ cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực để bảo đảm tận dụng và phát huy các cơ hội, lợi ích mà Hiệp định CPTPP đem lại và xây dựng các biện pháp phòng ngừa và xử lý những tác động bất lợi có thể phát sinh trong quá trình thực hiện Hiệp định CPTPP…

Đặc biệt, việc tự do hóa dịch vụ tái bảo hiểm, trong đó có bảo tái tiền gửi nước ngoài tại Việt Nam theo tinh thần của Hiệp định CPTPP sẽ mang lại nhiều cơ hội và thách thức mới cho vấn đề bảo hiểm tiền gửi của hệ thống ngân hàng Việt Nam, theo đó:

Một mặt, sự mở rộng cửa cho các tổ chức tái bảo hiểm ngoại này sẽ làm tăng cơ hội lựa chọn người cung ứng dịch vụ bảo hiểm tiền gửi có chất lượng cho các NHTM và người dân gửi tiền; tăng khả năng bảo vệ quyền lợi và sự ổn định chung, chống sốc đổ vỡ hệ thống, duy trì lòng tin trên thị trường. Đến lượt mình, điều này sẽ giúp tăng huy động tiền gửi với quy mô lớn và thời hạn gửi dài hơn; giảm thiểu tình trạng rút tiền ồ ạt hoặc gửi tiền ngắn hạn kiểu phòng ngừa rủi ro của người gửi tiền…

Mặt khác, sự cạnh tranh sẽ gia tăng mạnh mẽ hơn cả về phía cơ quan bảo hiểm tiền gửi, cũng như về phía các ngân hàng thương mại-người mua bảo hiểm tiền gửi.

Đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, sự hiện diện của các tổ chức bảo hiểm tiền gửi ngoại này sẽ tạo áp lực cạnh tranh trực tiếp về thị phần với công ty bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Cụ thể, sẽ có một số khách hàng truyền thống của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chuyển sang mua bảo hiểm tiền gửi của công ty bảo hiểm tiền gửi ngoại, do điều kiện bảo hiểm và mức bảo hiểm, cũng như khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm tiền gửi ngoại. Khi đó, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ phải cân nhắc tăng mức bảo hiểm và cải thiện điều kiện, chất lượng dịch vụ của mình theo hướng thị trường hơn.

Đối với các ngân hàng thương mại, sự cạnh tranh giữ chân người gửi tiền bằng nâng mức chi trả bảo hiểm và lòng tin vào khả năng bảo vệ người gửi tiền cũng gia tăng. Khách hàng – người gửi tiền sẽ có động lực và xu hướng chuyển sang gửi tiền nhiều và dài hạn hơn vào những ngân hàng nào có cam kết mua bảo hiểm tiền gửi cao hơn. Rõ ràng, việc một ngân hàng đưa ra cam kết mua bảo hiểm tiền gửi lớn hơn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi lớn hơn 75 triệu đồng theo quy định của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện hành cũng sẽ có lợi thế thu hút và chinh phục lòng tin khách hàng hơn so với ngân hàng khác có mức cam kết thấp hơn, dù lãi suất huy động cao hơn. Điều nàyđồng nghĩa với sự sụt giảm thị phần và khả năng huy động vốn của ngân hàng nào có mức chi trả bảo hiểm tiền gửi thấp hơn.

Đồng thời, khi mua bảo hiểm tiền gửi cao, các ngân hàng sẽ phải chi trả tiền phí nhiều hơn, tuân thủ nhiều quy định báo cáo và minh bạch tài chính nghiệp vụ ngặt nghèo hơn với công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm tiền gửi. Thậm chí, người gửi tiền cũng có thể sẽ bị giảm lãi suất tiền gửi, còn doanh nghiệp lại phải tăng lãi suất nhận vay tín dụng để bù lại phần chi phí gia tăng của ngân hàng cho mua bảo hiểm tiền gửi theo mức cao tương ứng đó. Cuộc chiến về chia sẻ lợi ích, lợi nhuận và lòng tin gắn với mức phí mua và mức chi trả bảo hiểm tiền gửi sẽ gia tăng và sẽ tạo ra nhiều động thái mới trong cơ cấu và hướng chuyển dịch các dòng tín dụng và ngay cả hoạt động nghiệp vụ của các ngân hàng và tổ chức tín dụng.

Việc chủ động nhận diện cơ hội và thách thức mới, chủ động đa dạng hóa và tái cơ cấu, nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm tiền gửi theo hướng tăng thị trường hơn và hài hòa lợi ích, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền sẽ ngày càng trở thành nhiệm vụ quan trọng và gia tăng áp lực đối với cả cơ quan bảo hiểm tiền gừi và các ngân hàng thương mại. 

Đồng thời, cần tiếp tục ttăng cường xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu các TCTD, cải thiện năng lực, sự lành mạnh và lòng tin vào hoạt động của các ngân hàng; tăng cường thông tin và bảo đảm an ninh thông tin trên thị trường tài chính tiền tệ.

Nhận diện, ngăn chặn các tin đồn thất thiệt, bảo đảm chất lượng thông tin gắn với an ninh tài chính-tiền tệ các cấp độ vĩ mô và vi mô là trách nhiệm chung của các cơ quan chức năng, tổ chức, cơ quan truyền thông, cộng đồng xã hội và cá nhân có liên quan, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin TC-TT và sự phát triển bền vững đất nước.

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Bảo vệ người gửi tiền trong bối cảnh thực thi CPTPP