Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) dự báo trong thời gian tới có thể tiếp tục ghi nhận các trường hợp mắc bệnh bạch hầu, các ổ dịch tại khu vực có tỷ lệ tiêm chủng thấp.
Ngày 21/9, tại Hội nghị trực tuyến tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh, công tác tiêm chủng và an toàn tiêm chủng năm 2020, ông Đặng Quang Tấn - Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết, từ đầu năm 2020 đến nay, cả nước có 198 ca bệnh bạch hầu, chủ yếu là các ca mắc trong tháng 6-7.
Trong đó, khu vực Tây Nguyên là 172 ca; miền Trung 22 ca; miền Nam 4 ca; riêng miền Bắc từ năm 2015 đến nay không có ca bệnh bạch hầu. Điều tra dịch tễ cho thấy, trong 198 trường hợp dương tính với vi khuẩn bạch hầu (138 ca bệnh và 60 người lành mang trùng), có 4 ca tử vong (Đắk Nông 2 ca, Gia Lai 1 ca, Kon Tum 1).
So với cùng kỳ năm 2019 (41 trường hợp mắc, 3 tử vong) số mắc tăng 157 trường hợp, tử vong tăng 1 trường hợp.
Đáng nói, có tới 161 ca bạch hầu không tiêm chủng (chiếm 81,3%), chỉ có 37 ca bệnh có tiêm chủng.
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên chủ trì hội nghị. Ảnh: Minh Quyết/TTXVN.
Nguyên nhân được chỉ ra là do đa số các xã có ổ dịch ở vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, điều kiện khó khăn, bất đồng ngôn ngữ, không hợp tác tiêm vaccine. Một số khu vực đã lâu không ghi nhận ca bệnh, cán bộ y tế cơ sở thiếu kinh nghiệm trong chẩn đoán, giám sát phát hiện sớm. Nhiều trường hợp mắc bệnh bạch hầu ở nhóm lớn tuổi, do thời điểm chương trình tiêm chủng mở rộng chưa triển khai đầy đủ, còn xã trắng về tiêm chủng…
Ông Đặng Quang Tấn dự báo trong thời gian tới, có thể tiếp tục ghi nhận các trường hợp mắc bệnh bạch hầu, các ổ dịch tại khu vực có tỷ lệ tiêm chủng thấp, sau nhiều năm tích lũy số lượng không được tiêm chủng hoặc tiêm không đủ mũi, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên nêu rõ đa số các ca bệnh đều xuất hiện ở vùng lõm tiêm chủng. Vì thế phải giải quyết được vùng lõm này, đảm bảo tính an toàn, hiệu quả. Đồng thời lưu ý những tháng còn lại của năm 2020, đầu năm 2021, tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải có những biện pháp quyết liệt trong phòng, chống.
"Thủ tướng đã chỉ đạo thực hiện mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch vừa phát triển kinh tế, không địa phương nào, đơn vị nào để xảy ra tình trạng dịch chồng dịch. Vì vậy, tuyệt đối không lơ là, chủ quan trong phòng chống dịch, kiên quyết ngăn chặn nguồn lây, khoanh vùng dập dịch nhanh", ông Tuyên quán triệt.
Ông Tuyên cũng nhấn mạnh trong phòng, chống dịch bệnh tới đây phải đánh giá kỹ tình hình, nguy cơ dịch bệnh truyền nhiễm ở từng tỉnh, từng thành phố vì nguy cơ bùng phát dịch các vùng miền khác nhau.
Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên đề nghị ngay sau hội nghị, Sở Y tế ở các tỉnh có dịch bạch hầu báo cáo Uỷ ban Nhân dân xây dựng và triển khai tiêm chủng đầy đủ, an toàn theo chỉ đạo của Bộ Y tế tại 4 kế hoạch tiêm chủng vắc xin (kế hoạch uống bổ sung OPV, Kế hoạch tiêm vắcxin MR, Kế hoạch đảm bảo dây chuyền lạnh cho vx, kế hoạch tiêm vắ cxin Td cho trẻ em 7 tuổi).
Để tăng cường công tác phòng, chống bệnh bạch hầu, PGS.TS Trần Như Dương - Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương đã hướng dẫn kỹ thuật các tuyến về công tác giám sát, xử lý và phòng, chống bệnh bạch hầu. Trong đó có hướng dẫn chẩn đoán các trường hợp bệnh bạch hầu nghi ngờ, trường hợp bệnh xác định để có các biện pháp xử lý, phòng chống thích hợp. Lưu ý về định nghĩa các trường hợp tiếp xúc gần với bệnh nhận bạch hầu trong thời kỳ mắc bệnh (người bệnh và người lành mang trùng) để áp dụng các biện pháp phòng bệnh, xử lý ổ dịch nghiêm ngặt.
Bệnh bạch hầu đã có vắc xin phòng bệnh, tiêm phòng bệnh bạch hầu đúng lịch là biện pháp quan trọng, đặc hiệu để phòng bệnh bạch hầu, tuy nhiên cần lựa chọn đúng vắc xin bạch hầu về liều lượng và thời điểm tiêm chủng.
Đồng thời, cần áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp cách ly, bệnh nhân, ca bệnh nghi ngờ, người tiếp xúc gần, xử lý ổ dịch, điều trị ca bệnh và điều trị dự phòng để hạn chế tối đa lây nhiễm. Biện pháp sử dụng kháng sinh dự phòng có tác dụng quyết định, nhằm loại trừ nguồn lây trong cộng đồng (bệnh nhân và người lành mang trùng) rất hiệu quả.