Tại buổi Tọa đàm “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo BLHS năm 2015” tổ chức mới đây, các chuyên gia pháp lý đến từ Bộ Tư pháp, TANDTC, giới luật sư… đã đề cập đến những mấu chốt quan trọng trong áp dụng hình phạt đối với loại tội phạm này.
Loại tội phạm mới
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 lần đầu tiên quy định chế định trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân và được thể hiện tập trung tại Chương XI của Bộ luật. Đây là điểm đổi mới nổi bật, mang tính đột phá trong chính sách hình sự nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền thống về vấn đề tội phạm và hình phạt. Chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS 2015 được quy định nhằm tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra.
Các đại biểu tham dự buổi tọa đàm
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề mới, hết sức phức tạp, do vậy, để bảo đảm sự thận trọng trong việc quy định chính sách mới, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số nước, BLHS đã xác định rõ giới hạn áp dụng chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo hướng hẹp cả về chủ thể lẫn về loại tội mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự.
Về loại tội, BLHS 2015 quy định PNTM chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 31 tội danh được liệt kê cụ thể tại Điều 76 của BLHS (chiếm tỷ lệ 9,87%). Các tội danh này đều thuộc nhóm tội phạm về kinh tế và nhóm tội phạm về môi trường. Đồng thời, Bộ luật cũng quy định rõ 04 điều kiện để một PNTM phải chịu trách nhiệm hình sự, bao gồm: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Về hệ thống chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội được quy định tại Điều 33 và Điều 46 của BLHS bao gồm 3 hình phạt chính: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; 3 hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính và 04 biện pháp tư pháp: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
Luật sư Nguyễn Hồng Bách (Công ty Luật Bross & Cộng sự) cho biết: Pháp nhân thương mại (PNTM) là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM phải là chủ thể được hưởng lợi từ hình vi phạm tội, các cá nhân nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi vì mục đích, lợi ích chung của pháp nhân đó. Lợi ích có thể là tài sản, tiền bạc, cũng có thể là những dạng lợi ích vật chất khác, những lợi ích này có thể đã được mang lại hoặc chưa mang lại cho pháp nhân.
Các điều kiện chịu trách nhiệm của PNTM là hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh PNTM; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của PNTM; chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội của PNTM được quy định tại khoản 2 Điều 27 BLHS 2015 cụ thể như sau: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Tòa phải xem xét
Nhận xét về loại tội phạm này, ông Trần Văn Dũng, Vụ phó Vụ pháp luật hình sự - hành chính (Bộ Tư pháp) cho rằng, sự ra đời của BLHS 2015 đã đánh dấu bước phát triển mang tính đột phá trong chính sách và tư duy lập pháp hình sự của Nhà nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự, BLHS 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức, PNTM. Điều này đã làm thay đổi tư duy có tính truyền thống về tội phạm và hình phạt, tạo cơ sở pháp lý trong đấu tranh phòng chống tội phạm nhất là các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Quang cảnh buổi tọa đàm
Ngoài việc bị xử lý vi phạm hành chính, thì theo Điều 76 BLHS 2015 quy định 33 tội mà PNTM phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu trong các lĩnh vực như: Lĩnh vực bảo vệ môi trường, lĩnh vực thuế, kinh doanh, thương mại; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm.
Cũng như đối với người phạm tội, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do PNTM gây ra, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với PNTM.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với PNTM phạm tội bao gồm: Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm. Tuy nhiên, đối với PNTM, việc ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm có thể do PNTM hoặc lãnh đạo của PNTM thực hiện vì lợi ích của PNTM mình. Nếu lãnh đạo của PNTM cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì tình tiết giảm nhẹ này là tình tiết giảm nhẹ “kép” vừa được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với PNTM, vừa được áp dụng đối với người phạm tội của PNTM; tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội…
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với PNTM phạm tội, bao gồm: Câu kết với PNTM khác để phạm tội. Tình tiết phạm tội này cũng tương tự như tình tiết phạm tội có tổ chức đối với người phạm tội, nhưng đối với PNTM thì hành vi phạm tội bao giờ cũng là hành vi có tổ chức nên không cần phải quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hình thức phạm tội có tổ chức của PNTM ở tình tiết tăng nặng được mở rộng hơn, đó là “câu kết với PNTM khác để phạm tội”. Tình tiết có tính đặc thù chỉ đối với PNTM thương mại mới được bổ sung.
Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng; phạm tội 2 lần trở lên; tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm…
Cũng trong buổi tọa đàm, nhiều ý kiến cũng đã đề cập đến vấn đề xung quanh trách nhiệm hình sự của PNTM như cần làm rõ trách nhiệm đại diện pháp nhân của các tổ chức và cá nhân; trường hợp vi phạm nào được miễn trách nhiệm hình sự; phân loại tội phạm với pháp nhân; hay việc vi phạm mà pháp nhân đã khắc phục hậu quả thì sẽ xử lý ra sao.