Vụ việc 39 người tử vong trong xe container ở Anh một lần nữa gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng “xuất khẩu lao động chui” ở nước ta, đặc biệt là ở các tỉnh vùng cao biên giới, nơi tập trung chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số.
Tự gieo mình vào nguy hiểm
Những năm gần đây, tình trạng người lao động xuất cảnh trái phép đang trở thành một vấn đề “nóng” đối với các cấp chính quyền và lực lượng chức năng, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Không chỉ tạo ra sự bất ổn về an ninh, chính trị, những “lao động chui” này còn đẩy chính bản thân mình vào những rủi ro không thể lường trước được.
Đối với các tỉnh có đường biên giới giáp với Trung Quốc như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Lạng Sơn... tình trạng xuất cảnh trái phép dường như đã trở thành phong trào, người lao động chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số. Thu nhập bình quân của họ giao động từ 200 đến 300 nghìn đồng/ngày. Cá biệt cũng có những công việc được trả tới 500 nghìn đồng cho một ngày công. Công việc chủ yếu của họ là lao động phổ thông như vận chuyển hàng hóa, làm thuê tại các trang trại, khai thác mỏ, xây dựng….
Trào lưu này hiện cũng đang lan dần đến các tỉnh nội địa với những lao động trong độ tuổi từ 20 đến 30. Những người này hy vọng rằng, sau vài năm lao động tại nước ngoài, họ sẽ dành dụm được một khoản tiền kha khá để có thể về quê xây nhà, lập trang trại hoặc kinh doanh, buôn bán nhỏ...
Song những “giấc mơ” đó quá ngắn ngủi đối với hầu hết người lao động xuất cảnh trái phép. Qua môi giới, họ xuất cảnh chủ yếu bằng con đường visa du lịch hoặc vượt biên trái phép qua đường mòn lối tắt. Các chế độ của người lao động như tiền lương, bảo hiểm, nơi ăn nghỉ… là do chủ thuê và người làm thuê tự ý thỏa thuận với những thiệt thòi đáng kể mà người lao động vốn không tự chủ được. Không những vậy, do thiếu hiểu biết nên họ đang tự đánh cược tính mạng của mình vì miếng cơm manh áo và đẩy các ngành chức năng vào “thế khó” trong quản lý nhân sự cũng như quản lý hoạt động xuất nhập cảnh.
Việc khai báo khi xuất cảnh sẽ giúp người dân được an toàn
Nhiều năm đã trôi qua, song gần 40 người dân của xã Bản Lang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu vẫn chưa hết rùng mình khi nhớ lại những ngày tháng làm lao động khổ sai bên Trung Quốc. Ngày đó, vì tin lời rủ rê của bọn “săn đầu người”, họ đã kéo nhau đi làm thuê cho một chủ trang trại tại vùng sâu của huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Ông Lò Văn Minh, một thành viên trong đoàn người lao động kể lại rằng, họ đã bị người môi giới lừa vượt biên trái phép qua con suối với lý do “buổi trưa cán bộ Biên phòng không làm việc”.
Sau 2 tháng làm việc vất vả, điều kiện ăn ở tồi tệ, kém vệ sinh… họ đòi tiền công để về nước thì được chủ đất trả lời là chưa đến thu hoạch nên chưa có tiền và bắt phải làm thêm cho đủ 3 tháng mới trả. Gần đến ngày trả lương như lời hẹn thì tất cả những người làm thuê tại trang trại này bị Công an Trung Quốc đến kiểm tra và bắt giam rồi bị đẩy trả về nước mà không mang về được một đồng tiền công nào.
Đâu phải chỉ bị lợi dụng, chiếm đoạt tiền lương và sức lao động, nguy cơ bị xâm hại và có thể bị thiệt mạng của những lao động này cũng rất cao. Trên thực tế đã xuất hiện dấu hiệu một số kẻ xấu lợi dụng việc đi lao động để mua bán người, trộm cắp tài sản, trấn cướp trên biên giới. Cá biệt cũng xảy ra một vài vụ người lao động bị thương hoặc bị chết do tai nạn lao động không được đền bù, chủ lao động cho xác nạn nhân vào bao tải rồi vứt qua các lối mòn biên giới.
Người đi thấp thỏm trước sự “hên xui” của vận mệnh đã đành, người ở nhà ngóng đợi dòng tiền từ nước ngoài gửi về cũng không hề thanh thản. Không ít gia đình phải nhận những cuộc điện thoại của người thân gọi về từ bên kia biên giới đều kể rằng, họ bị các công ty, xí nghiệp bắt làm việc từ 12 đến 14 tiếng/ngày mà không hề được trả lương. Để hồi hương, nhất định họ phải bỏ ra một số tiền để “chuộc thân”, ít thì 20 – 30 triệu, nhiều lên đến hàng trăm triệu. Nhiều gia đình không có tiền chuộc người thì đành nhắm mắt trông vào ý trời.
Anh Sùng A Khai, ở Mèo Vạc, Hà Giang, một người may mắn được thả về sau khi gia đình bỏ 20 triệu ra chuộc, kể rằng, năm 2017, anh theo 3 người bạn vượt biên sang Trung Quốc theo đường mòn để làm thuê cho một trang trại chăn nuôi. Suốt 6 tháng liền, anh phải làm quần quật từ sáng sớm cho đến khuya, nhưng không hề được một đồng lương. Anh và bạn thắc mắc thì bị chủ trang trại cho đàn em đánh đập.
Đầu tháng 4/2018, khi đang cắt cỏ trên đồi thì anh Khai bị một nhóm người vào bắt đi. Chúng đe dọa nếu anh không gọi điện cho gia đình nộp tiền chuộc thì sẽ bị mổ lấy nội tạng hoặc sẽ bị đưa đi lao động dưới hầm mỏ. Sau đó anh Khai đã phải gọi điện về nhờ người thân vay mượn được 20 triệu đồng đem nộp cho người của chúng thì anh mới được thả.
Chung tay giúp dân “lạc nghiệp”
Để có được một biện pháp thực sự hữu hiệu cho vấn đề lao động xuất cảnh trái phép đi lao động tại nước ngoài là điều không đơn giản. Nhất là trong bối cảnh điều kiện kinh tế, trình độ nhận thức của người dân ở mỗi địa phương có sự khác biệt. Nguyên nhân chính dẫn đến trào lưu này đó là bởi đời sống của bà con gặp nhiều khó khăn, thiếu việc làm. Việc xuất khẩu lao động chính ngạch vượt quá khả năng của những gia đình nông dân, ngư dân vì phải đóng mức chi phí cao hơn, đòi hỏi phải có trình độ ngoại ngữ, tay nghề chuyên môn đạt chuẩn và quản lý giờ làm việc nghiêm ngặt, người dân còn thiếu thông tin về lao động, việc làm… Không còn cách nào khác, người lao động đành người lựa chọn con đường “lao động chui”.
Một thực tế khác cho thấy, những năm gần đây, địa bàn biên giới của những nước có chung đường biên giới với Việt Nam, đặc biệt là Trung Quốc đang đầu tư xây dựng nhiều công trình lớn, thiếu hụt lao động nghiêm trọng. Đồng thời, chính quyền nước bạn có chính sách hỗ trợ nông dân phát triển các dự án trồng cây nông, lâm nghiệp nên nhu cầu lao động phổ thông của bạn là rất lớn. Tiền thù lao trả cho một ngày công lao động cao nên người dân có sự so sánh và tăng ý định “xuất ngoại” làm thuê.
Nhu cầu tìm việc làm để có thu nhập cao là hết sức chính đáng với người dân nhất là với đồng bào vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đi lao động bằng cách vượt biên trái phép là hành vi vi phạm pháp luật, kéo theo hàng loạt các nguy cơ. Làm thế nào để giúp dân thay đổi nhận thức, nâng cao hiểu biết pháp luật vẫn luôn là giải pháp được đề xuất hàng đầu.
Mấy năm gần đây, các lực lượng chức năng như Công an, Biên phòng của các tỉnh miền núi, biên giới cũng đã thường xuyên phối hợp với chính quyền địa phương, tăng cường tuyên truyền, vận động bà con không xuất cảnh trái phép. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người dân có điều kiện khó khăn, thiếu thốn nên tận dụng những ngày nông nhàn sang nước bạn với lý do thăm người thân và ở lại làm thuê tại một số đồi nương, trang trại.
Cùng với công tác tuyên truyền, vận động, các đối tượng có hành vi câu móc, lôi kéo người xuất cảnh trái phép cũng đã bị Tòa án các tỉnh đưa ra xét xử nghiêm minh, nhanh chóng, kịp thời. Ví dụ như ngày 29/9/2019 vừa qua, tại huyện Yên Minh, TAND tỉnh Hà Giang đã mở phiên tòa xét xử lưu động đối với Sùng Mí Chứ (SN 1983), trú tại thôn Khai Hoang 2, xã Hữu Vinh, huyện Yên Minh (Hà Giang) về tội Mua bán người.
Theo cáo trạng, ngày 26/8/2018, Sùng Mí Chứ đã lừa Mua Thị V (SN 1978, trú tại thôn Lao Sì Lủng, xã Lao Và Chải, huyện Yên Minh) theo đường mòn ra biên giới để bán sang Trung Quốc với giá 3000 nhân dân tệ. Trước đó, Chứ hứa với V là sẽ xin cho cô vào làm công nhân một nông trường bên Trung Quốc, lương 8-10 triệu/tháng. Đến ngày 3/9/2018, V trốn được lên rừng và gọi điện thoại cho con trai là Vừ Mí H, hiện cũng làm thuê tại Trung Quốc đến đón để đưa về Việt Nam. Đến ngày 30/10/2018, Mua Thị V đã làm đơn tố cáo gửi đến cơ quan điều tra Công an huyện Yên Minh.
Tại phiên tòa, Sùng Mí Chứ đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. HĐXX đã tuyên phạt Sùng Mí Chứ 9 năm tù và phải bồi thường thiệt hại, tổn thất cho nạn nhân số tiền là 23 triệu đồng...
Lừa bán người lao động, Sùng Mí Chứ phải lĩnh 9 năm tù
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong công tác phòng chống tội phạm buôn người thì ngoài những biện pháp trên, cấp ủy, chính quyền cơ sở cần vào cuộc chỉ đạo quyết liệt, phối hợp với các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội kịp thời ngăn chặn không để tăng thêm số lao động xuất cảnh trái phép; đồng thời thông qua số lao động đã trở về nước để kêu gọi số lao động đang sống và làm việc ở nước ngoài. Tại các vùng biên, vùng giáp ranh, cần tăng cường quản lý chặt chẽ về an ninh hơn nữa để hạn chế tình trạng lao động vượt biên trái phép bằng con đường tiểu ngạch.
Bên cạnh đó, các địa phương cũng cần xây dựng chính sách, các chương trình, đề án nhằm tạo sự gắn kết giữa đầu tư phát triển kinh tế - xã hội với giải quyết việc làm cho người lao động tại chỗ, nhất là các hộ có ít đất sản xuất, các hộ giáp biên; làm tốt hơn nữa công tác đối ngoại, phối hợp với các địa phương, lực lượng chức năng phía đối diện trong việc quản lý, bảo vệ biên giới hoà bình, hữu nghị… để người dân có thể yên tâm lao động sản xuất trên chính mảnh đất của mình.
Vẫn biết để thực hiện những biện pháp trên là điều không đơn giản, song đó là cách làm hiệu quả và bền vững nhất để giải quyết tình trạng xuất cảnh trái phép hiện nay. Đồng thời, để không đẩy bản thân và gia đình vào rủi ro không đáng có thì chính người lao động phải học cách tự bảo vệ mình, nâng cao hiểu biết pháp luật và thực sự cẩn trọng trước khi quyết định bôn ba xứ người kiếm sống.