Vợ chồng kết hôn, tài sản chung được hiểu như thế nào?

Ls Ngô Thủy, Phó trưởng VPLS Interla| 17/03/2020 07:09
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Thu nhập mà vợ, chồng có được từ những nguồn khác nhau, hợp pháp được coi là tài sản chung của vợ, chồng. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung đó như nhau.

Hỏi: Tôi là Nguyễn Thị Lý, sinh năm 1988. Năm 2013 tôi có kết hôn với anh Trần Xuân N và chung sống tới tận bây giờ. Tôi nghe mọi người nói khi kết hôn thì sẽ có tài sản chung giữa vợ với chồng, tôi chưa hiểu và rất muốn biết nhiều hơn về vấn đề này.

Trả lời:

Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 theo đó thì một tài sản được coi là tài sản chung của vợ chồng nếu nó được hình thành từ việc kết hôn hợp pháp và những nguyên nhân sau:

– Tài sản hình thành do công sức lao động của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Điều này có nghĩa, sau khi đăng ký kết hôn thì tài sản vợ chồng có được do kinh doanh, do đi làm…. Thì đương nhiên được coi là tài sản chung. Dù tài sản đó chỉ do một người làm ra sau khi đăng ký kết hôn

– Vợ, chồng được người khác tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân. Điều này thường xảy ra khi vợ, chồng được cha mẹ tặng cho tài sản.

 Vợ chồng kết hôn, tài sản chung được hiểu như thế nào?

Ảnh minh họa

– Tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi đăng ký kết hôn nhưng vợ, chồng đồng ý đưa tài sản đó vào tài sản chung của vợ chồng. Chẳng hạn như trước khi kết hôn người chồng có mua một mảnh đất đứng tên riêng người chồng, sau khi kết hôn người chồng tiến hành làm sổ đỏ đứng tên hai vợ chồng. Việc đồng ý làm sổ đỏ đứng tên hai vợ chồng đồng nghĩa với việc người chồng đã chấp nhận gộp tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng.

Khoản 1, điều 33, Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, có quy định về tài sản chung của vợ chồng trong đó đề cập tới thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Vậy thu nhập hợp pháp khác ở đây là gì? Căn cứ quy định tại Điều 9, Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:

– Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng

– Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước.

– Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy thu nhập mà vợ, chồng có được từ những nguồn như trên đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung đó như nhau. Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng như sau

-  Về nguyên tắc, những tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

- Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung

Xuất phát từ thực tế cuộc sống về hôn nhân và gia đình và những tranh chấp về tài sản của vợ chồng, pháp luật ghi nhận việc thoả thuận của các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt, giữa vợ và chồng có thể thoả thuận tài sản nào là tài sản chung của vợ, chồng và tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng.

Việc nhập hay không nhập tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể mặc nhiên hoặc được thoả thuận bằng văn bản. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định nguyên tắc suy đoán về nguồn gốc tài sản của vợ chồng, bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng về tài sản và bảo đảm tính công bằng, hợp lý khi giải quyết tranh chấp: Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.

Vợ, chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung. Mọi giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình thì vợ chồng cần phải bàn bạc, thoả thuận với nhau thì những giao dịch đó mới có giá trị pháp lý. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ có một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Vợ chồng kết hôn, tài sản chung được hiểu như thế nào?