UBTVQH cho ý kiến về Luật Tổ chức TAND (sửa đổi): Xác định phạm vi thực hiện “quyền tư pháp” của Tòa án

15/07/2014 22:44
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Sau phiên khai mạc, chiều 14/7, UBTVQH đã họp và cho ý kiến về Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) và Luật Tổ chức VKSND (sửa đổi). Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng chủ trì phiên họp.

Giới hạn về “quyền tư pháp”

Báo cáo một số nội dung xin ý kiến UBTVQH tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cho biết, trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của các vị ĐBQH, thực hiện quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Thường trực Ủy ban Tư pháp đã tổ chức phiên họp với TANDTC (cơ quan chủ trì soạn thảo) và các cơ quan có liên quan để tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, làm cơ sở cho việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật.

Nội dung đầu tiên được đề cập đến trong báo cáo là việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án. Tiếp thu ý kiến của đa số ĐBQH, trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 và quy định của pháp luật hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị sửa lại Điều 2 của Dự thảo Luật về nội dung thực hiện quyền tư pháp, đó là:

UBTVQH cho ý kiến về Luật Tổ chức TAND (sửa đổi): Xác định phạm vi thực hiện “quyền tư pháp” của Tòa án

Chánh án Trương Hòa Bình phát biểu tại phiên họp

Khi thực hiện quyền tư pháp, TAND có nhiệm vụ, quyền hạn: Nhân danh nước CHXHCN Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh - thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; ra bản án, quyết định việc phạm tội, áp dụng hình phạt, quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân; bản án, quyết định của TAND có hiệu lực phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành; quyết định xử lý vi phạm hành chính các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của TAND; quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật; quyết định về việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật về thi hành án; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; thông qua hoạt động xét xử, phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Tư pháp Quốc hội; góp ý kiến bằng văn bản về sự phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất với hệ thống pháp luật của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi cơ quan có thẩm quyền ban hành theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.

Điều kiện đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán

Báo cáo giải trình và đề xuất tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi), Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình cho biết, về cơ bản, TANDTC đồng tình với nhiều nội dung mà Ủy ban Tư pháp đề xuất thể hiện tại Điều 2 của Dự thảo Luật. Tuy nhiên, để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về kiểm soát quyền lực; quy định Tòa án thực hiện nhiệm vụ hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa… thì Tòa án phải được giao nhiệm vụ và có quyền hạn kiểm soát hoạt động tư pháp. Theo đó, cần quy định theo hướng, trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền, Tòa án phải kiểm tra, kiểm soát toàn bộ quá trình từ điều tra, truy tố, xét xử để đảm bảo tính đúng đắn của quá trình tố tụng và tuyên bản án đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Nếu có khiếu nại của cá nhân, cơ quan, tổ chức về việc quyền và lợi ích của họ bị xâm hại hoặc không được đảm bảo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc thông qua hồ sơ vụ án, Tòa án phát hiện hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng, hành vi, quyết định thi hành án trái luật thì Tòa án phải có quyền xem xét, kết luận và xử lý hành vi, quyết định tố tụng thi hành án đó.

Ví dụ, trong trường hợp việc áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam của Cơ quan điều tra, VKS hoặc biện pháp đảm bảo thi hành án như kê biên tài sản của cơ quan thi hành án trái pháp luật… thì Tòa án có thể hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp đó và có thể thay thế bằng biện pháp khác theo quy định của pháp luật; hoặc Cơ quan điều tra khởi tố bị can mặc dù có sự phê chuẩn của VKS nhưng có khiếu nại của đương sự về quyết định khởi tố thì Tòa án phải xem xét tính hợp pháp và có căn cứ của quyết định đó ngay từ giai đoạn điều tra.

Chánh án Trương Hòa Bình cũng nhấn mạnh, để TAND thực hiện quyền tư pháp có hiệu quả, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân… thì việc đảm bảo nguyên tắc Thẩm  phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là điều rất quan trọng. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, Ban soạn thảo đã nghiên cứu, xác định rõ tiêu chí bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử để bổ sung vào Dự thảo Luật.

Đề nghị tiếp tục giao TANDTC quản lý các Tòa án về tổ chức

Về cơ chế quản lý TAND (Điều 8), Ủy ban Tư pháp cho rằng, đa số ý kiến nhất trí với quy định của dự thảo Luật là TANDTC quản lý các TAND về mặt tổ chức, có sự phối hợp với HĐND. Tuy nhiên, các ý kiến này cho rằng, dự thảo Luật chưa làm rõ cơ chế quản lý như thế nào để bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử; chưa làm rõ cơ chế TANDTC phối hợp với Hội đồng nhân dân quản lý Tòa án như thế nào? Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị nên cân nhắc quy định thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia để quản lý Tòa án, bảo đảm cho Tòa án được độc lập.

Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị tiếp thu ý kiến của đa số ĐBQH, tiếp tục giao TANDTC quản lý các Tòa án về tổ chức. Tuy nhiên, thi hành các quy định của Hiến pháp năm 2013 và thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị thì hệ thống tổ chức của Tòa án có sự đổi mới cơ bản. Tòa án được tổ chức thành bốn cấp, theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, mối liên hệ với Hội đồng nhân dân địa phương cũng có sự thay đổi. Vì vậy, đề nghị tiếp thu ý kiến không nên quy định Hội đồng nhân dân địa phương “phối hợp với TANDTC trong việc quản lý các Tòa án về tổ chức” để Hội đồng nhân dân tập trung làm tốt chức năng giám sát các hoạt động của Tòa án.

Đối với quy định về việc tổ chức TAND sơ thẩm khu vực trong hệ thống Tòa án, đa số ý kiến tán thành với phương án thành lập TAND sơ thẩm khu vực để thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức cũng như hoạt động của TAND cấp huyện hiện nay, đồng thời tăng cường tính độc lập của TAND sơ thẩm khu vực trong xét xử, tập trung đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, tránh dàn trải bình quân lãng phí. Theo đó, tổ chức TAND gồm bốn cấp như quy định của Dự thảo Luật, gồm: TANDTC, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án sơ thẩm khu vực.

Thành lập Tòa giản lược: Có lợi nhiều cho người dân

Qua thảo luận, đa số thành viên UBTVQH cơ bản tán thành với Báo cáo của Ủy ban Tư pháp về một số vấn đề lớn của Dự thảo Luật và cho rằng, Dự thảo Luật đã tiếp thu khá đầy đủ ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 vừa qua.

Đồng tình với nhiều nội dung trong Dự thảo Luật, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Doãn Khánh đề nghị nghiên cứu kỹ về tên của Luật và quy định sao cho phù hợp bởi Luật này không chỉ quy định chức năng nhiệm vụ của TAND mà cả của Tòa án quân sự các cấp. Ông Khánh cũng chưa đồng tình với quy định việc thành lập Tòa giản lược hiện nay. Kinh nghiệm từ các nước đó là phiên tòa được tiến hành theo thủ tục giản lược, chủ yếu giải quyết các vụ việc dân sự nhỏ.

Trải nghiệm thực tế, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội Trương Thị Mai lại cho rằng, rất cần thành lập Tòa giản lược hiện nay, nhất là về lao động vì các tranh chấp lao động diễn ra thường xuyên, cần được xử lý bằng quy trình đặc biệt, nhanh gọn, ít tốn thời gian hơn quy trình xử lý thông thường. Vì vậy, đề nghị nghiên cứu lại vấn đề này và phát huy Tòa giản lược, giới hạn với các tranh chấp tiền lương, đưa vào trung tâm cai nghiện (xử lý vi phạm hành chính chứ không phải hình sự). Quy định như vậy rất có lợi cho người dân.

Đối với nhiệm kỳ của Thẩm phán, nhiều ý kiến tán thành với phương án Thẩm phán TANDTC được bổ nhiệm không kỳ hạn cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Đối với Thẩm phán cấp khác là 5 năm, nếu được tái bổ nhiệm thì nhiệm kỳ tiếp theo trong thời hạn 10 năm là cần thiết, nhằm bảo đảm thận trọng, khách quan trong đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, tạo động lực phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm của Thẩm phán trong thực thi công vụ.

Về nhiệm vụ phát triển án lệ của TANDTC, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị tiếp thu ý kiến của đa số ĐBQH để thể chế hóa chủ trương nghiên cứu phát triển án lệ đã được nêu trong Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Nhiều thành viên UBTVQH cũng tán thành với quy định này. Tuy nhiên, cần tiếp tục làm rõ “án lệ” là gì? Giá trị pháp lý của án lệ; các tiêu chí, điều kiện, thủ tục lựa chọn, công bố án lệ cũng như việc thay đổi, hủy bỏ án lệ. Mặt khác, Ban soạn thảo cũng cần diễn đạt lại điều này sao cho hợp lý và phải có hướng dẫn cụ thể trong xét xử, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh, việc phát triển án lệ cần tuân thủ theo đúng nguyên tắc pháp luật và phải có hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng đối với các bản án khác. Ban soạn thảo cần quy định rõ án lệ áp dụng như thế nào và đối với những vụ án nào thì áp dụng chứ không được quy định chung chung.

Mai Thoa

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
UBTVQH cho ý kiến về Luật Tổ chức TAND (sửa đổi): Xác định phạm vi thực hiện “quyền tư pháp” của Tòa án