Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của TAND, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (kỳ 1)

Trương Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC| 05/04/2014 07:35
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

LTS: Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

 Theo đó nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán Tòa án nhân dân đã được bổ sung, sửa đổi.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Ban Cán sự đảng TANDTC đang chỉ đạo nghiên cứu xây dựng Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) để TAND thực sự xứng tầm là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình triển khai thực hiện đổi mới, cải cách hệ thống Tòa án, Báo Công lý xin trân trọng đăng tải bài viết của Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình về định hướng và nội dung quan trọng của Dự thảo Luật này.                                   

Cải cách tư pháp nói chung, cải cách Tòa án nói riêng là những nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng, củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đã được khẳng định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, như: Nghị quyết Trung ương 8 Khóa VII; Nghị quyết Trung ương 3 và 7 Khóa VIII; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Bộ Chính trị; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI… đã đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án theo hướng: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa án cấp cao được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành”.

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đã đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Ngày 28/7/2010, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 79-KL/TW về “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó một lần nữa xác định phương hướng tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm 4 cấp là Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao. Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, thể hiện sự phân công quyền lực Nhà nước mạch lạc, đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp; Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta, trong Hiến pháp được quy định rõ “Tòa án thực hiện quyền tư pháp”.

Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của TAND, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (kỳ 1)

Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình phát biểu khai mạc Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm 2014

Theo quy định của Hiến pháp mới, tại Chương VIII về Tòa án nhân dân, nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ (khoản 1 và 3 Điều 102); cơ cấu tổ chức (khoản 2 Điều 102); nguyên tắc và hoạt động của Tòa án nhân dân (Điều 103); về Thẩm phán và Hội thẩm (khoản 3 Điều 105); Hiến định nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm (khoản 2 Điều 103); Đề cao việc tranh tụng tại Tòa án (khoản 5 Điều 103); đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 104)… đều đã được bổ sung, sửa đổi. Đây là những nội dung lớn, cần được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) để phù hợp với quy định của Hiến pháp mới, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, xứng tầm là cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, thực sự là chỗ dựa của nhân dân về công lý, góp phần tích cực vào việc bảo vệ và khôi phục những quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm.

Triển khai thực hiện những quy định của Hiến pháp mới, Tòa án nhân dân tối cao xác định công việc cấp thiết đầu tiên là khẩn trương tổng kết, nghiên cứu, xây dựng, lấy ý kiến rộng rãi đóng góp vào Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) để phù hợp với những quy định của Hiến pháp; đồng thời, nghiên cứu làm rõ, sâu sắc, đầy đủ nội hàm của quyền tư pháp, làm cơ sở thực hiện đúng đắn quyền này. Mặt khác, tiếp tục hoàn thiện Đề án tổng thể về thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao; đặt ra mục tiêu, nguyên tắc, phương hướng, nội dung, từng bước đi và phân công trách nhiệm trong việc xây dựng, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức lại hệ thống Tòa án theo chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến định là “Cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới.

Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND hiện nay

Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật; cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án theo địa giới hành chính: Ở trung ương có Tòa án nhân dân tối cao, ở địa phương có các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra, còn có các Tòa án Quân sự được tổ chức trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Tòa án đặc biệt.

Trên phạm vi toàn quốc, hiện nay có 742 Tòa án nhân dân, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 678 Tòa án nhân dân cấp huyện (không tính các Tòa án quân sự). Về thẩm quyền xét xử, hệ thống Tòa án nhân dân có thể phân thành 741 Tòa án cấp sơ thẩm (bao gồm 678 Tòa án cấp huyện và 63 Tòa án cấp tỉnh); 66 Tòa án cấp phúc thẩm (bao gồm 63 Tòa án cấp tỉnh và 3 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao); 69 cơ quan xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (bao gồm 63 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ). Về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao: Tòa án nhân dân tối cao có Hội đồng Thẩm phán; Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính, 03 Tòa Phúc thẩm, Tòa án Quân sự trung ương, bộ máy giúp việc.

Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của TAND, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (kỳ 1)

Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Ảnh minh họa)

Về số lượng cán bộ, Thẩm phán, cho đến nay tổng biên chế toàn hệ thống Tòa án nhân dân hiện có 12.763 người; trong đó Tòa án nhân dân tối cao có 645 người (104 Thẩm phán), Tòa án nhân dân cấp tỉnh có 3525 người (1.042 Thẩm phán) và Tòa án nhân dân cấp huyện có 8.593 người (3.813 Thẩm phán). So với biên chế được phân bổ, hiện toàn hệ thống còn thiếu 761 người, chủ yếu là ở cấp huyện (498 người/695 huyện).

Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, 100% Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, 95% Thẩm phán Tòa án  cấp tỉnh và cấp huyện có trình độ cử nhân luật; 90% Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, 66% Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh và  20% Thẩm phán Tòa án cấp huyện có trình độ cử nhân chính trị hoặc cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100% Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, đa số đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, Đảng viên theo quy định của Trung ương.

Trên thực tế, nếu tính theo định mức xét xử hiện nay quy định đối với Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện trên các địa bàn và tổng số lượng án phải thụ lý, xét xử với tỷ lệ gia tăng án hàng năm là 15%, trong vòng 5 năm tới, hệ thống Tòa án nhân dân cần bổ sung mỗi năm khoảng 1000 người, trong đó có khoảng 500 Thẩm phán thì mới đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tuy nhiên, vấn đề lo ngại không chỉ dừng ở việc thiếu số lượng, mà vấn đề về trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán cũng đang được đặt ra trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế do trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán về ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế còn nhiều hạn chế, trong khi thực tiễn đã bắt đầu phát sinh nhiều loại vụ án phức tạp cả về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài.

Về cơ sở vật chất của các Tòa án, do trong thời gian dài chưa được quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính cấp tỉnh, cấp huyện trong hơn mười năm qua, nên hiện nay trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Tòa án, nhất là ở cấp huyện còn thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng trụ sở mà phải thuê nơi làm việc và hội trường xét xử. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Tòa án được cấp như định mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp, chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù, đặc biệt của công tác xét xử, của cơ quan đặc biệt thực hiện quyền tư pháp quốc gia, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Tòa án.

Về hoạt động xét xử của các Tòa án, trong những năm gần đây, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên tục tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15%, làm cho công việc của các Tòa án ngày càng quá tải. Tính từ tháng 10/2012 đến 30/09/2013, toàn hệ thống Tòa án nhân dân đã giải quyết được 364.819 vụ án các loại trong tổng số 395.415 vụ án đã thụ lý (đạt tỷ lệ 92,3%); số vụ án còn lại hầu hết là mới thụ lý và còn trong thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật. So với cùng kỳ năm trước, số vụ án đã thụ lý tăng 34.474 vụ; đã giải quyết tăng 31.951 vụ; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán giảm 0,12%.

Một số bất cập và tồn tại chủ yếu về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND

Qua quá trình chỉ đạo, nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động của các Tòa án nhân dân, cho thấy tồn tại và bất cập chủ yếu của hệ thống Tòa án nhân dân thể hiện như sau:  

Thứ nhất, thẩm quyền xét xử của mỗi Tòa án hiện đang được xác định vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết, xét xử các vụ án. Theo quy định của pháp luật tố tụng, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, các Tòa án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hoặc vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm như của Tòa án nhân dân tối cao, hoặc có đầy đủ cả ba thẩm quyền xét xử theo trình tự giải quyết một vụ án: Vừa xét xử sơ thẩm, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Điều này không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Tòa án mỗi cấp quy định trong hệ thống Tòa án. Trên thực tế, mặc dù đã từng bước tăng thẩm quyền xét xử cho các Tòa án nhân dân cấp huyện, nhưng các Tòa án nhân dân cấp tỉnh vẫn phải giải quyết số lượng không nhỏ các vụ án theo thủ tục sơ thẩm mà lẽ ra các vụ án này phải được xét xử, giải quyết ở Tòa án cấp huyện với tư cách là Tòa án sơ thẩm trong hệ thống Tòa án.

Các bản án, quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, về mặt lý thuyết và cả trên thực tế vẫn có thể bị hủy bởi Tòa án nhân dân tối cao, nên làm hạn chế ý nghĩa pháp lý của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án nhân dân tối cao vẫn tiếp tục giải quyết, xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và trên thực tế, không ít các bản án, quyết định phúc thẩm của các Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã bị kháng nghị và bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính Tòa án nhân dân tối cao. Điều này, vô hình chung đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín pháp lý của Tòa án nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Tòa án.

Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định chế định giám đốc thẩm, tái thẩm là nhằm tạo cơ chế khắc phục các sai lầm trong việc giải quyết, xét xử các vụ án, để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử trên bình diện chung của cả hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm (63 Tòa án cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao), thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Trên thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, hoặc thậm chí có trường hợp Quyết định giám đốc thẩm của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao đã bị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tuyên hủy.

Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ ràng trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc giải quyết một vụ án kéo dài, thậm chí không có điểm dừng, mặt khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa án và ở một chừng mực nào đó, làm vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.

Thứ hai, về nhiệm vụ và tổ chức công việc của Tòa án các cấp. Ở Tòa án nhân dân tối cao vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm bên cạnh việc phải thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Tòa án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh, tuy có vị trí là Tòa án cấp dưới, nhưng có vai trò vừa là cấp sơ thẩm, phúc thẩm, vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm; ngoài ra, Tòa án cấp tỉnh còn có nhiệm vụ quản lý các Tòa án nhân dân cấp huyện về tổ chức theo phân cấp của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, sức ép về công việc đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng không phải nhỏ, nhất là đối với Tòa án các thành phố lớn. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện, do được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện nên dàn trải, nhiều đầu mối, có nơi quá nhiều việc, có nơi lại quá ít việc.

Trên thực tế, những bất cập nói trên về tổ chức và hoạt động của các Tòa án đang gây ra những trở ngại, khó khăn cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và tổ chức công việc để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác ở Tòa án mỗi cấp và ở từng Tòa án. Đối với các Tòa án cấp huyện có khối lượng lớn về công việc (như các Tòa án thành phố, thị xã thuộc tỉnh của các thành phố trực thuộc Trung ương), thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất luôn là gánh nặng và là vấn đề bức xúc do xuất phát từ yêu cầu phải giải quyết một khối lượng công việc về chuyên môn quá lớn và ngày càng tăng theo đà phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương đó. Ngược lại, đối với những Tòa án cấp huyện ở khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên có khối lượng công việc phải giải quyết không đáng kể, nhưng vẫn phải bố trí đủ cán bộ theo cơ cấu tổ chức bộ máy của Tòa án theo quy định và yêu cầu phải có trụ sở, phương tiện làm việc như các đơn vị khác, nên đã gây ra lãng phí không đáng có về nhân lực và vật lực.

Mặt khác, do được tổ chức theo đơn vị hành chính nên Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện được coi là các Tòa án nhân dân địa phương, nên địa vị pháp lý của những Tòa án cấp này chưa được xác định một cách chính xác, hợp lý và chưa phù hợp với vai trò, vị trí của Tòa án trong bộ máy quyền lực Nhà nước. Cụ thể: Tòa án nhân dân tối cao được xem như một cơ quan Bộ, ngành ở trung ương, Tòa án nhân dân cấp tỉnh được xác định giống như một cơ quan cấp sở của tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện được xem như một cơ quan cấp phòng của huyện. Do đó, việc xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến tổ chức của các Tòa án còn chưa thực sự thỏa đáng. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức, Thẩm phán Tòa án các cấp được quy định như các ngạch cán bộ, công chức hành chính nhà nước khác là không đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử và không tương xứng với vị trí, vai trò và tính chất hoạt động đặc biệt của cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong bộ máy quyền lực Nhà nước. Hiện tại, việc xây dựng, kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ và việc cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các Tòa án gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân có phần xuất phát từ những yếu tố bất cập mang tính khách quan nói trên.

Thứ ba, do các Tòa án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy và Hội đồng nhân dân quan tâm theo hướng tích cực và đúng quy định của pháp luật đến công tác tư pháp thì Tòa án nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện nhiệm vụ xét xử được giao.

Ngược lại, nơi nào cấp ủy, Hội đồng nhân dân không quan tâm đúng mức đến công tác Tòa án hoặc để xảy ra tình trạng buông lỏng sự chỉ đạo, giám sát hay can thiệp quá sâu vào việc xét xử của Tòa án thì công tác Tòa án gặp nhiều khó khăn, phức tạp, thậm chí ảnh hưởng đến tính chất độc lập trong hoạt động xét xử.

Thứ tư, tồn tại cơ bản, chủ yếu trong suốt thời gian qua là hệ thống Tòa án nhân dân chưa được đặt đúng vị trí trong cơ cấu quyền lực Nhà nước; chưa xác định đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp – Quyền lực đặc biệt bảo vệ công bằng, công lý của Quốc gia, bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng các hoạt động của Tòa án. Do đó, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và nguyên tắc hoạt động, chế độ đãi ngộ, cơ sở vật chất…của Tòa án chưa được nhận thức và xác định đúng tầm, chưa đảm bảo đầy đủ các yếu tố để Tòa án nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ và sứ mệnh cao cả là Bảo vệ công lý mà Đảng, nhân dân giao phó.

  (Kỳ sau đăng tiếp)

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của TAND, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (kỳ 1)