Chiều 17/2, với 461/461 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (chiếm 96,44% tổng số đại biểu), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.
Thay "kỳ họp bất thường" thành "kỳ họp không thường lệ"
Trước đó, trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, tại khoản 2 Điều 90 của luật quy định về việc "Quốc hội họp bất thường", song có ý kiến đề nghị đổi thành "Quốc hội họp không thường lệ" hoặc Quốc hội có kỳ họp chuyên đề.
Trên cơ sở các phương án đề xuất của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa quy định về "Quốc hội họp bất thường" tại khoản 2 Điều 83 của Hiến pháp thành "kỳ họp không thường lệ".
Cụ thể, "kỳ họp không thường lệ của Quốc hội được tổ chức khi có yêu cầu của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội để kịp thời xem xét, quyết định các vấn đề cấp bách thuộc thẩm quyền của Quốc hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại".
Theo Chủ nhiệm Hoàng Thanh Tùng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiếp tục nghiên cứu việc đánh số các kỳ họp thường lệ và không thường lệ của Quốc hội cho phù hợp để thực hiện thống nhất từ nhiệm kỳ sau.
Ngoài ra, ông Tùng cho biết, Luật không quy định cứng số lượng, tên gọi các cơ quan của Quốc hội. Trong 10 cơ quan của Quốc hội hiện nay, có 8 cơ quan chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của việc sắp xếp, sáp nhập, điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn và có 2 cơ quan mới của Quốc hội được thành lập.
Do đó, việc quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan cần tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh, đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu về đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Quy định chi tiết 2 trường hợp tạm đình chỉ nhiệm vụ đại biểu Quốc hội
Theo Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tạm đình chỉ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội trong 2 trường hợp.
Một là đại biểu Quốc hội bị khởi tố bị can. Hai là quá trình xem xét, xử lý vi phạm của đại biểu Quốc hội, có cơ sở xác định phải xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên đối với đại biểu Quốc hội là cán bộ, công chức, viên chức hoặc xử lý bằng pháp luật hình sự mà cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã có văn bản đề nghị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.
Theo ông Tùng, một số ý kiến đề nghị xác định rõ cơ sở làm căn cứ quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội để tránh áp dụng tùy nghi, gây ảnh hưởng đến uy tín của đại biểu Quốc hội.
Đề nghị bổ sung các trường hợp cụ thể để Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.
Ngoài ra, có đại biểu Quốc hội kiến nghị bổ sung thời hạn tạm đình chỉ và cơ chế hỗ trợ đại biểu Quốc hội phục hồi quyền lợi hợp pháp khi bị tạm đình chỉ không đúng hoặc bị oan sai.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng quy định trên nhằm cụ thể hóa Quy định số 148 của Bộ Chính trị về căn cứ tạm đình chỉ công tác trong trường hợp có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, luật cũng quy định cụ thể việc đại biểu trở lại thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và được khôi phục lại các lợi ích hợp pháp khi có quyết định, kết luận về việc không có vi phạm, không bị xử lý kỷ luật.
Đại biểu Quốc hội bị kết tội bằng bản án, quyết định của Tòa án, theo quy định của luật, đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.