Lần đầu tiên UBTVQH giám sát, các Bộ trưởng thực hiện lời hứa của mình ra sao?

Nhóm PV| 15/08/2019 09:33
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết, Chính phủ đã chuẩn bị 10 báo cáo chuyên đề và 1 báo cáo tổng hợp về thực hiện Nghị quyết và kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Lần đầu tiên UBTVQH giám sát, các Bộ trưởng thực hiện lời hứa của mình ra sao?

Chủ tịch Quốc hội phát biểu khai mạc Phiên Chất vấn và trả lời chất vấn. Ảnh Quochoi

Lần đầu tiên giám sát việc thực hiện lời hứa của Bộ trưởng

Phát biểu khai mạc phiên chất vấn sáng nay (15/8), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh đây là lần đầu tiên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành giám sát lại các nội dung đã được chất vấn từ đầu nhiệm kỳ. Chủ tịch Quốc hội cho biết Chính phủ đã chuẩn bị 10 báo cáo chuyên đề và 1 báo cáo tổng hợp về thực hiện nghị quyết và kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó nêu chi tiết từng nội dung cụ thể.

Các cơ quan của Quốc hội đã thẩm tra và đánh giá báo cáo của Chính phủ. Chủ tịch Quốc hội đánh giá những nội dung trong Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã được các bộ, ngành triển khai nghiêm túc, mang lại nhiều kết quả, điều này thể hiện sự nõ lực và trách nhiệm của các thành viên Chính phủ.

Tuy nhiên, so với yêu cầu và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục triển khai, nhiều nội dung cần tăng cường chỉ đạo mới đem lại chuyển biến tích cực. Theo Chủ tịch Quốc hội, những kiến nghị nêu trong báo cáo là cơ sở để các đại biểu Quốc hội tiếp tục chất vấn lại các vấn đề.

Điều hành phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu đặt câu hỏi ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề. Các thành viên Chính phủ khi trả lời không nêu lại báo cáo, xác định rõ trách nhiệm, nêu rõ nguyên nhân và giải pháp trong thời gian tới.

Mỗi lượt chất vấn sẽ có 3-5 đại biểu đặt câu hỏi, mỗi người có 1 phút. Câu hỏi thuộc lĩnh vực và trách nhiệm của bộ, ngành nào thì bộ trưởng, trưởng ngành đơn vị đó sẽ trả lời. Những tư lệnh ngành có liên quan cũng có thể được mời trả lời để làm rõ vấn đề. Mỗi Bộ trưởng có 3 phút để trả lời chất vấn, nhưng trong điều hành chủ tọa có thể linh động thời gian.

Cũng theo Chủ tịch Quốc hội, các đại biểu có quyền tranh luận nhưng không quá 2 lần, thời gian tranh luận không quá 2 phút.

Thực hiện 4 Nghị quyết và 4 kết luận của UBTVQH trên 5 lĩnh vực

Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng trình bày báo cáo tóm tắt của Chính phủ tổng hợp tình hình thực hiện các Nghị quyết, kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIV về chất vấn và giám sát chuyên đề từ đầu nhiệm kỳ đến hết năm 2018.

Theo báo cáo, thực hiện Chương trình công tác năm 2019 và Kế hoạch số 377/KH-UBTVQH14 ngày 8/3/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ đã gửi 10 báo cáo chuyên đề và 1 Báo cáo tổng hợp về việc thực hiện 4 nghị quyết và 4 kết luận của UBTVQH về chất vấn và giám sát chuyên đề từ đầu nhiệm kỳ đến hết năm 2018 trên các lĩnh vực: Khoa học và công nghệ (KHCN); giao thông vận tải; nông nghiệp và phát triển nông thôn; quản lý, sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài; lao động - thương binh và xã hội; thông tin và truyền thông; xây dựng, đô thị; xây dựng pháp luật (thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp); công tác dân tộc; an ninh trật tự (thuộc trách nhiệm của Bộ Công an) với những nội dung chủ yếu như sau:

Về Khoa học và Công nghệ

Trước hết, về việc thực hiện Nghị quyết số 297/NQ-UBTVQH14 ngày 2/11/2016 của UBTVQH: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tiếp tục rà soát, hoàn thiện hành lang pháp lý; tập trung xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo; tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KHCN đáp ứng yêu cầu hội nhập và cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Ban hành nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp KHCN, thúc đẩy chuyển giao và làm chủ công nghệ từ nước ngoài, khuyến khích doanh nghiệp nâng cao trình độ thiết kế, chế tạo trong nước. Hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo đã hình thành và có bước phát triển.

Các cấp, các ngành đã triển khai việc rà soát, kiện toàn, sắp xếp lại mạng lưới tổ chức KHCN công lập theo hướng cân đối giữa các vùng, miền và đẩy mạnh hoạt động tự chủ theo tinh thần các Nghị quyết số 18 và 19 của Hội nghị Trung ương 6, khóa XII. Ưu tiên bố trí vốn ngân sách nhà nước, đồng thời tăng cường huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho hoạt động KHCN.

Hoạt động của các Quỹ trong lĩnh vực KHCN tiếp tục được đẩy mạnh, hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ.

Tập trung triển khai thực hiện các chương trình KHCN trọng điểm cấp Nhà nước, dự án KHCN quy mô lớn và 13 dự án hỗ trợ phát triển ngành cơ khí trong nước; mang lại hiệu quả thiết thực đối với ngành cơ khí chế tạo và công nghiệp hỗ trợ, góp phần nâng cao năng lực thiết kế, chế tạo dây chuyền đồng bộ ngành cơ khí.

Tiềm lực KHCN quốc gia được củng cố, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương, gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KHCN trong từng giai đoạn.

Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn hàng đầu của Việt Nam như Viettel, VNPT, Vingroup, TH, Thaco... đang chuyển hướng tích cực đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát triển công nghệ, khởi nghiệp, sáng tạo, thành lập viện nghiên cứu, trường đại học của doanh nghiệp.

Thứ hai, về thực hiện Thông báo số 1672/TB-TTKQH ngày 09/4/2018 của Tổng Thư ký Quốc hội: Chính phủ đã chỉ đạo khẩn trương rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo, đẩy nhanh quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, phát triển thị trường KHCN; ban hành các chính sách cụ thể để hỗ trợ chuyển giao công nghệ, tăng cường kết nối giữa viện nghiên cứu, trường đại học với các doanh nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ và năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Đẩy mạnh thu hút đầu tư và các khu công nghệ cao; đẩy mạnh hoạt động ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao và lĩnh vực công nghệ cao. Tập trung xây dựng Chương trình trọng điểm cấp quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chỉ đạo thực hiện nghiêm các quy định về kiểm soát nhập khẩu công nghệ, thiết bị đã qua sử dụng, xử lý nghiêm vi phạm.

Quan tâm xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ KHCN. Nâng cao hiệu quả chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ KHCN; chú trọng thu hút trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài. Quan tâm phát triển khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo trong cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Các cấp, các ngành tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KHCN. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với trên 70 quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế và khu vực; là thành viên của hơn 100 tổ chức quốc tế và khu vực về KHCN; mạng lưới đại diện KHCN được xây dựng, hoạt động hiệu quả tại nhiều quốc gia đã giúp nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu phát triển kinh tế số ở Việt Nam, tiếp cận các công nghệ tiên tiến của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Nhờ việc thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, năm 2019 tăng 3 bậc so với năm 2018, lên xếp thứ 42/129 quốc gia, vùng lãnh thổ; tăng 17 bậc so với năm 2016; đưa Việt Nam vươn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp. Số bài báo quốc tế giai đoạn 2014-2018 tăng gấp 2 lần, từ 4.071 lên 8.821 bài.

Để phù hợp với tình hình, yêu cầu thực tiễn và các cam kết quốc tế, Chính phủ kiến nghị UBTVQH trình Quốc hội xem xét, đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 việc xây dựng Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) và xem xét, bổ sung các quy định về doanh nghiệp KHCN được hưởng ưu đãi sử dụng đất, miễn giảm tiền thuê đất; ưu tiên thuê đất trong khu kinh tế, khu công nghệ cao; vay vốn tín dụng ưu đãi...

Về Giao thông vận tải

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 26/6/2018 triển khai thực hiện Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 của UBTVQH. Đến nay các nhóm nhiệm vụ, giải pháp theo yêu cầu của nghị quyết đã được Chính phủ triển khai thực hiện đạt kết quả…

Chính phủ đã yêu cầu Bộ Giao thông vận tải và các địa phương rà soát mức thu phí để điều chỉnh cho phù hợp; đồng thời đẩy nhanh tiến độ triển khai thu phí tự động không dừng, bảo đảm cuối năm 2019 tất cả các trạm thu phí sẽ thu phí không dừng theo Nghị quyết của Quốc hội.

Kiên quyết không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu theo hình thức hợp đồng BOT để đảm bảo quyền lựa chọn cho người dân.

Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các công trình giao thông trọng điểm như: Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các cao tốc: Bắc Giang - Lạng Sơn, Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ.

Chỉ đạo các bộ, ngành liên quan thực hiện đồng bộ các giải pháp, đa dạng hóa hình thức huy động vốn, thúc đẩy tiến độ các đề án, dự án; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các công trình giao thông đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đã và đang triển khai.

Thực hiện nghiêm các kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm toán, hầu hết các dự án đều có giá trị quyết toán thấp hơn giá trị tổng mức đầu tư ban đầu.

Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng sớm có giải pháp xử lý phù hợp để giải quyết khó khăn đối với một số dự án sụt giảm doanh thu so với phương án tài chính đã phê duyệt.

Tuy nhiên, hệ thống quy định pháp luật và thực tế triển khai còn một số tồn tại, hạn chế: Chi phí đầu tư xây dựng được lập chưa thực sự đáp ứng được nguyên tắc tính đúng, tính đủ và phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế. Hệ thống định mức, đơn giá chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới KHCN.

Thiếu thông tin đầy đủ về định mức và giá xây dựng theo cơ chế thị trường; nhiều dự án đã hoàn thành nhưng thu phí không đủ, phá vỡ mô hình tài chính của dự án gây khó khăn cho chủ đầu tư và các bên tài trợ vốn. Một số vướng mắc chưa được sửa đổi kịp thời; đến nay có rất ít dự án BOT mới được triển khai…

Thời gian tới, Chính phủ tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành sớm khắc phục, giải quyết dứt điểm những tồn tại, hạn chế của các công trình giao thông đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đã và đang triển khai; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

Trong đó trình Quốc hội thông qua Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội (tháng 10/2019). Chính phủ kiến nghị UBTVQH thường xuyên giám sát việc thực hiện các dự án theo hình thức đối tác công tư; kịp thời cho ý kiến để giải quyết, xử lý những vấn đề vượt thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Về Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Chính phủ đã chỉ đạo tổ chức tổng kết 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và xây dựng, trình Trung ương ban hành Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đồng thời, chủ động thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cung cấp thông tin kịp thời, đấu tranh phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch về chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 10 nghị định, hơn 100 quyết định về triển khai chủ trương chính sách, chiến lược, quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh biển, đảo; nhiều văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế, chính sách về khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh.

Phê duyệt Đề án tuyên truyền bảo vệ chủ quyền và phát triển bền vững biển, đảo Việt Nam giai đoạn 2018-2020 và Đề án phát triển vật liệu xây dựng phục vụ các công trình ven biển và hải đảo đến năm 2025.

Ngay sau khi Liên minh Châu Âu áp dụng biện pháp ‘thẻ vàng”, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành và UBND 28 tỉnh, thành phố ven biển thực hiện các biện pháp nhằm sớm gỡ bỏ “thẻ vàng”, nhất là tập trung vào các khuyến nghị của Ủy ban Châu Âu.

Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về IUU. Đến nay, chúng ta đã đạt được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận; trong đó đã hoàn thành xây dựng khung pháp lý để quản lý, phát triển ngành thủy sản theo hướng bền vững, có trách nhiệm và hội nhập quốc tế; ngăn chặn và chấm dứt hoàn toàn tình trạng tàu cá, ngư dân ta xâm phạm và khai thác hải sản trái phép ở vùng biển các nước quốc đảo Thái Bình Dương.

Thời gian tới, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, nhất là các địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.

Nghiên cứu các hình thức khai thác, nuôi trồng thủy hải sản, khai thác viễn dương, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực để khai thác thủy hải sản.

Tăng cường huy động nguồn lực từ các thành  phần kinh tế tham gia nghiên cứu khoa học, đổi mới, chuyển giao công nghệ trong khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản.

Chính phủ kiến nghị Quốc hội, UBTVQH tiếp tục ưu tiên bố trí các nguồn lực để thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với tổ chức, cá nhân khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Về Quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài

Thực hiện Nghị quyết số 582/NQ-UBTVQH14 ngày 5/10/2018 của UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tăng cường thu hút và quản lý chặt chẽ, sử dụng vốn vay nước ngoài hiệu quả phục vụ cho phát triển đất nước.

Hệ thống quy định pháp luật được rà soát, bổ sung và hoàn thiện; trong đó đã ban hành các Nghị quyết, Quyết định về chỉ đạo, điều hành quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có tác động lan toả sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi.

Đồng thời, Chính phủ cũng đã trình Quốc hội thông qua Luật Đầu tư công (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 7; bảo đảm công khai, minh bạch, tăng cường sự chủ động và hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài gắn với trách nhiệm của các Bộ, địa phương, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Kịp thời báo cáo để Quốc hội có Nghị quyết về điều chỉnh vốn nước ngoài trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.

Công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài đã đạt được các kết quả quan trọng; hiệu quả các chương trình, dự án đã được nâng cao, bảo đảm các chỉ tiêu nợ công mà Quốc hội giao; trong đó nợ Chính phủ đến cuối năm 2018 được kiểm soát ở mức 50% GDP, thấp hơn quy định trong kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016 - 2020 và giảm mạnh so với mức 52,7% vào năm 2016 và 51,7% vào năm 2017.

Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài vẫn còn một số tồn tại, hạn chế; quy định pháp luật còn bất cập; tỷ lệ giải ngân vốn vay nước ngoài còn thấp so với kế hoạch; một số dự án triển khai, giải ngân chậm, chưa hiệu quả...            

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật; yêu cầu người đứng đầu các Bộ ngành, địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp, tập trung xử lý những khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân các dự án, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao uy tín, vị thế đất nước.

Về Lao động Thương bình và Xã hội

Về thực hiện chính sách đối với người có công: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ: Quốc phòng, Công an và các cơ quan liên quan tập trung giải quyết hồ sơ tồn đọng xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.

Trong 3 năm qua, đã rà soát, xem xét và giải quyết trên 6 nghìn hồ sơ tồn đọng, đạt tỷ lệ xử lý 100%; xác nhận trên 2 nghìn liệt sĩ, trên 2.600 thương binh.

Những hồ sơ không đủ điều kiện đã được kết luận và giải thích cho đối tượng.

Xây mới, sửa chữa nhà cho gần 300.000 gia đình chính sách

Hoàn thành hỗ trợ xây mới, sửa chữa nhà ở cho gần 300 nghìn hộ gia đình chính sách người có công. Quan tâm tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; kịp thời thăm hỏi động viên thương binh, gia đình liệt sĩ và tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phát hiện, xử lý nghiêm những trường hợp tiêu cực, tham nhũng, lợi dụng chính sách ưu đãi người có công.

Tuy nhiên, việc giải quyết hồ sơ tồn đọng còn những khó khăn, vướng mắc do hồ sơ lâu năm, phức tạp, thiếu cơ sở xác minh.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu, sửa đổi toàn diện dự án Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng để trình UBTVQH ban hành vào tháng 12 năm 2019; đồng thời tiếp tục xem xét, hoàn thành giải quyết 725 hồ sơ (323 liệt sĩ, 402 thương binh) trong năm 2019.

Về công tác giáo dục nghề nghiệp: Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung rà soát, hoàn thành việc quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp để định hướng phát triển nguồn nhân lực cho giai đoạn tới.

Tăng cường công tác dự báo thị trường lao động, nâng cao hiệu quả công tác phân luồng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông; đẩy mạnh phát triển thị trường lao động. Đổi mới mô hình đào tạo nghề, hướng đến phát triển việc làm bền vững.

Thí điểm đào tạo nghề theo đơn đặt hàng và triển khai đào tạo theo các chương trình chuyển giao từ các nước tiên tiến. Quy định về liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, khuyến khích nâng cao hiệu quả kết nối giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao động với cơ sở đào tạo và người lao động.

Thực hiện đào tạo nghề trình độ sơ cấp hoặc cấp thẻ đào tạo nghề đối với người hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an. Chất lượng, hiệu quả tư vấn, định hướng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động ngày càng nâng cao; các hoạt động giao dịch việc làm ngày càng đa dạng.

Tuy nhiên, việc phối  hợp, liên kết, chia sẻ thông tin thị trường lao động còn hạn chế; kết nối giữa doanh nghiệp, trường học và người lao động còn có những bất cập. Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục rà soát, sắp xếp các trung tâm dịch vụ việc làm, hoàn thiện tài liệu, công cụ hỗ trợ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường lao động.

Về chuyển đổi, quản lý các cơ sở cai nghiện: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các Bộ, ngành liên quan khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về khuyến khích cai nghiện tự nguyện; hỗ trợ người sau cai nghiện; thu hút các nguồn lực xã hội tham gia công tác cai nghiện; đổi mới cách thức quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc tại các cơ sở cai nghiện.

Tuy nhiên, công tác quản lý người nghiện chậm đổi mới; một số cơ sở cai nghiện xuống cấp; điều kiện ăn ở, sinh hoạt còn hạn chế; chất lượng dịch vụ tư vấn, trị liệu chưa cao.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương tăng cường quản lý, ưu tiên bố trí nguồn lực nâng cấp, sửa chữa các cơ sở cai nghiện; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cai nghiện ma túy; đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, trong đó có các cơ chế, chính sách xã hội hóa công tác cai nghiện.

Về Thông tin và Truyền thông

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn thông tin. Tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin. Xây dựng cơ chế phối hợp về đảm bảo an toàn thông tin mạng, xác định phạm vi, trách nhiệm cụ thể, rõ ràng.

Ưu tiên bố trí nguồn lực, triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng như: Bảo vệ các lĩnh vực quan trọng; phòng, chống mã độc; giám sát an toàn thông tin cho Chính phủ điện tử; ứng cứu sự cố; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phổ biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng cho cơ quan nhà nước và cộng đồng.

Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Đưa vào hoạt động Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia. Chủ động phát hiện và theo dõi nguồn phát tán thông tin trên mạng Internet. Thường xuyên tổ chức các chương trình, xây dựng tài liệu để tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức và kỹ năng bảo đảm an toàn thông tin cho các cơ quan nhà nước và cộng đồng.

Theo báo cáo chỉ số an toàn an ninh mạng toàn cầu năm 2019, Việt Nam xếp thứ 50/194 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 50 bậc so với năm 2017 (xếp thứ 100).

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu người đứng đầu các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về an toàn, an ninh mạng; thường xuyên nâng cấp, cải tiến Hệ thống giám sát an toàn, an ninh mạng, kịp thời phát hiện các thông tin tiêu cực, trái chiều báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định.

Phê duyệt, triển khai Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực thông tin và truyền thông; Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025.

Thường xuyên chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí đưa tin chính xác, kịp thời, góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận xã hội.

Xử lý nghiêm các cơ quan báo chí không thực hiện đúng tôn chỉ mục đích và những vụ việc thông tin sai sự thật, xúc phạm uy tín của tổ chức, uy tín danh dự của tổ chức, cá nhân.

Tăng cường trao đổi, yêu cầu Facebook, Google hợp tác ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin sai sự thật, trái quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành; chủ động thực hiện các biện pháp chống tin giả, nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người sử dụng trong nhận biết thông tin giả mạo, sai sự thật.

Về Xây dựng, Đô thị 

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Xây dựng và các bộ ngành, địa phương liên quan tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực xây dựng; trình Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch, trong đó quy định chặt chẽ hơn về điều kiện, trình tự điều chỉnh quy hoạch, làm rõ hơn vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan.

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các định hướng, chiến lược, chương trình, kế hoạch về phát triển đô thị. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị về việc tăng cường chấn chỉnh công tác quy hoạch xây dựng, quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch được duyệt; rà soát các quy hoạch liên quan đến công tác quản lý đô thị, đặc biệt là tại các thành phố lớn; kiểm tra công tác lập, quản lý và thực hiện quy hoạch đô thị, cấp phép xây dựng tại các khu đô thị mới, khu chung cư cao tầng.

Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về cắt giảm, đơn giản hóa tối thiểu 50% danh mục hàng hóa, sản phẩm và thủ tục kiểm tra chuyên ngành, trong đó có lĩnh vực xây dựng; yêu cầu tăng cường phân cấp ủy quyền cho các Bộ ngành, địa phương về thẩm định dự án, thiết kế, dự toán xây dựng công trình; đã cắt giảm 85% tổng số điều kiện đầu tư kinh doanh; cắt giảm 49/90 thủ tục hành chính về lĩnh vực xây dựng. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện quy định pháp luật về xây dựng.

Tuy nhiên, công tác quản lý và phát triển đô thị còn những hạn chế, bất cập. Quy định về quản lý chung cư vẫn còn bất cập dẫn đến khiếu kiện kéo dài.

Việc di dời trụ sở các Bộ, ngành, cơ sở giáo dục đào tạo, bệnh viện, cơ sở công nghiệp, sản xuất gây ô nhiễm ra ngoài trung tâm các đô thị lớn còn chậm. Một số đồ án quy hoạch còn thiếu tính khoa học, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

Việc điều chỉnh quy hoạch tại nhiều đô thị chưa đúng quy định, chưa bảo đảm công khai, minh bạch. Tình trạng xây dựng không phép, cấp phép không phù hợp với quy hoạch, chậm thực hiện các kết luận thanh tra vẫn còn tiếp diễn. Tình trạng ngập úng, ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường xảy ra ở nhiều đô thị.

Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư xây dựng; trình Quốc hội về Luật sửa đổi một số điều của Luật Xây dựng, Luật quản lý phát triển đô thị; xem xét sửa đổi một số điều của Luật Thanh tra, Luật Xử lý vi phạm hành chính và rà soát, ban hành quy chuẩn về quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn.

Về Xây dựng pháp luật

Về lĩnh vực xây dựng pháp luật thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 và điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018.

Theo đó, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 (tháng 6/2020). Trong thời gian đang sửa đổi luật này, yêu cầu các Bộ, ngành tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quy định của luật; đặc biệt chú trọng các quy định về đánh giá tác động, xây dựng nội dung về chính sách để bảo đảm tính hợp lý, khả thi của chính sách.

Chính phủ đã ưu tiên, dành nhiều thời gian hơn cho công tác xây dựng pháp luật. Đối với các dự án luật quan trọng, phức tạp, Thường trực Chính phủ đã tổ chức nhiều cuộc họp để xem xét, cho ý kiến. Đặc biệt, từ tháng 3/2018 đến nay, Chính phủ đã tổ chức 3 Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật (tháng 8/2018, tháng 3/2019 và tháng 8/2019).

Để nâng cao chất lượng các dự án luật, Chính phủ đã chỉ đạo kiên quyết không trình Quốc hội, UBTVQH các dự án không đảm bảo đầy đủ hồ sơ, không chất lượng và tính khả thi, không đủ nguồn lực thực hiện.

Quán triệt các Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ động tăng cường phối hợp với các cơ quan Quốc hội trong quá trình lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; soạn thảo, chỉnh lý, trình dự án luật, pháp lệnh. Tổ chức họp với các Ủy ban của Quốc hội để trao đổi, thảo luận, làm rõ các vấn đề còn có ý kiến khác nhau.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2019-2021; ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật. Tập trung củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật.

Nhiều hình thức mới phổ biến giáo dục pháp luật được các cấp, các ngành áp dụng, mang lại hiệu quả tích cực; trong đó các hoạt động hưởng ứng tổ chức Ngày Pháp luật đã trở thành hoạt động thường niên, triển khai có hiệu quả.

Chính phủ kiến nghị UBTVQH tăng cường giám sát việc thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật phổ biến giáo dục pháp luật; quan tâm phân bổ kinh phí ngân sách nhà nước triển khai thi hành luật và đầu tư nguồn lực cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật tại các địa phương thuộc diện ngân sách trung ương hỗ trợ.

Về lĩnh vực Dân tộc

Chính phủ đã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả các Chương trình, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện.

Triển khai Đề án đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi; cấp một số ấn phẩm, báo tạp chí; thí điểm cấp radio cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. 

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành tiêu chí xác định xã, thôn hoàn thành mục tiêu dự án 2 (Chương trình 135) thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững; phê duyệt Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam; Đề án vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ trẻ em các xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Chỉ đạo tích cực triển khai Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số; rà soát, báo cáo về việc thực hiện chính sách, pháp luật thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Thực hiện Nghị quyết của UBTVQH, Chính phủ đã chỉ đạo tập trung xây dựng, hoàn thiện Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi để báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019).

Sau khi được Quốc hội phê duyệt, Chính phủ sẽ chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian tới.

Về An ninh trật tự

Về lĩnh vực an ninh trật tự thuộc trách nhiệm của Bộ Công an, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật về an ninh, trật tự.

Đồng thời, ban hành kịp thời nhiều chủ trương, kế hoạch, mệnh lệnh, giải pháp công tác đấu tranh làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện lớn của đất nước.

Đẩy mạnh xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc; củng cố, kiện toàn về tổ chức hoạt động của các lực lượng bảo đảm an ninh, trật tự cơ sở...

Mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp, truy nã tội phạm, tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”, xâm hại trẻ em...

Tập trung triển khai thực hiện các phương án, kế hoạch giải quyết tình hình phức tạp về ma túy trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao; triệt phá nhiều đường dây tội phạm cờ bạc, cá độ bóng đá qua mạng Internet; điều tra, xử lý nghiêm các đối tượng gian lận thi cử tại một số địa phương; sơ kết 5 năm thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng dư luận xã hội quan tâm...

Đã báo cáo Quốc hội bổ sung Dự án Xây dựng cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư vào danh mục đầu tư công trung hạn và đẩy nhanh tiến độ thực hiện, phấn đấu hoàn thành đúng tiến độ được giao.

Chính phủ kiến nghị Quốc hội, UBTVQH quan tâm giám sát, kiểm tra để nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến tích cực hơn nữa trên các mặt công tác bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn cả nước cũng như tại các thành phố lớn, các địa bàn chiến lược. Chính phủ tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết, khắc phục có hiệu quả những khó khăn, tồn tại, trong đó có những trọng tâm công tác đã đề ra để tiếp tục thực hiện có hiệu quả kết luận của UBTVQH tại Phiên họp thứ 26.

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Lần đầu tiên UBTVQH giám sát, các Bộ trưởng thực hiện lời hứa của mình ra sao?