Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế: Cần làm rõ bản chất của thỏa thuận

Ngọc Mai| 22/05/2020 12:18
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Ủy ban Đối ngoại cho rằng, cần làm rõ bản chất của thỏa thuận quốc tế để làm cơ sở cho việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật, tránh chồng lấn với Luật Điều ước quốc tế năm 2016.

Trong phiên họp sáng ngày 22/5, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XIV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Quốc hội đã nghe Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh thừa ủy quyền của Thủ tướng trình bày Tờ trình về dự án Luật Thỏa thuận quốc tế.

Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế: Cần làm rõ bản chất của thỏa thuận

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu

Tạo cơ sở cho việc thể chế hóa đường lối, chủ trương hội nhập quốc tế

Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế gồm 7 chương, 53 điều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực và tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế.

Tiếp tục chương trình làm việc của Kỳ họp thứ 9, sáng 22/5, Quốc hội nghe Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh trình bày Tờ trình về dự án Luật Thỏa thuận quốc tế.

Dự thảo Luật trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 gồm 7 chương, 53 điều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện và tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế.

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nhấn mạnh, việc ban hành Luật Thỏa thuận quốc tế là cần thiết nhằm tạo cơ sở cho việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế.

Luật sẽ điều chỉnh quy định về ký kết thỏa thuận quốc tế phù hợp với các văn bản mới được ban hành, sửa đổi như Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Chính quyền địa phương năm 2015, Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Luật Quản lý nợ công năm 2017, Quyết định số 36/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ...

Việc ban hành Luật này nhằm đáp ứng nhu cầu ký kết văn bản hợp tác quốc tế ở các cấp chưa được quy định trong Pháp lệnh như thỏa thuận quốc tế cấp Cục, Tổng Cục, các cơ quan chuyên môn của Ủy ban Nhân dân tỉnh, cơ quan cấp tỉnh của các tổ chức như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Chữ thập Đỏ Việt Nam...

Luật cũng quy định trình tự rút gọn cho trường hợp gấp để phục vụ yêu cầu đối ngoại; quy định trình tự đề xuất, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế của nhiều bộ, ngành, hoặc tỉnh, thành phố. Luật cũng khắc phục những điểm chưa thống nhất về kỹ thuật trong Pháp lệnh 2007 gây khó khăn cho việc giải thích và thực hiện.

Cần làm rõ bản chất của thỏa thuận quốc tế

Trình bày Báo cáo thẩm tra sau đó, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho biết, các ý kiến tham gia thẩm tra đều nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Thỏa thuận quốc tế theo Tờ trình của Chính phủ.

Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế: Cần làm rõ bản chất của thỏa thuận

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu phát biểu

Việc ban hành Luật Thỏa thuận quốc tế nhằm tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế, nhất là sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn nhu cầu ký kết thỏa thuận quốc tế, thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Về phạm vi điều chỉnh của dự luật, theo Ủy ban Đối ngoại, đã mang tính bao quát về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ký kết, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, tạm đình chỉ thực hiện và tổ chức thực hiện thỏa thuận quốc tế.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, việc ký kết và thực hiện thỏa thuận về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài đã được quy định tại Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và Luật Quản lý nợ công năm 2017; hợp đồng dân sự đã được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015; hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã được quy định tại dự thảo Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp này. 

Nếu Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và dự thảo Luật Thỏa thuận quốc tế cũng không điều chỉnh các thỏa thuận về cho vay, viện trợ của Việt Nam cho nước ngoài; thỏa thuận về viện trợ phi chính phủ nước ngoài thì sẽ tạo ra khoảng trống pháp lý.

Về khái niệm thỏa thuận quốc tế, dự thảo Luật quy định: “Thỏa thuận quốc tế là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài, không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước CHXHCN Việt Nam theo pháp luật quốc tế”. Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại cho biết, nhiều ý kiến cho rằng đã là cam kết quốc tế thì đều có sự ràng buộc ở các mức độ khác nhau trong quan hệ quốc tế giữa các chủ thể tham gia ký kết.

Khi đã chấp nhận sự ràng buộc của thỏa thuận quốc tế thì đương nhiên phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể ký kết, nhất là khi dự thảo Luật đã mở rộng ký kết gồm cả Nhà nước, Chính phủ; nếu phát sinh quyền và nghĩa vụ thì sẽ trùng với quy định Luật Điều ước quốc tế năm 2016.

Do đó, Ủy ban Đối ngoại cho rằng, cần làm rõ bản chất của thỏa thuận quốc tế để làm cơ sở cho việc xác định phạm vi điều chỉnh của Luật, tránh chồng lấn với Luật Điều ước quốc tế năm 2016; bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định trong dự thảo Luật này và trong hệ thống pháp luật.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Dự án Luật Thỏa thuận quốc tế: Cần làm rõ bản chất của thỏa thuận