Bệnh viện Phong - Da liễu Trung ương Quỳnh Lập cơ sở 1 (thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An) nằm biệt lập giữa những vạt đồi bạt ngàn cây lá và thưa thớt dân cư. Sự tĩnh mịch của đồi núi như bao bọc lấy những phận đời trầm buồn bị căn bệnh phong hành hạ, từng bị người đời xa lánh, hắt hủi hàng thập kỷ.
Bệnh viện Phong - Da liễu Trung ương Quỳnh Lập cơ sở 1 (thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An) nằm biệt lập giữa những vạt đồi bạt ngàn cây lá và thưa thớt dân cư. Sự tĩnh mịch của đồi núi như bao bọc lấy những phận đời trầm buồn bị căn bệnh phong hành hạ, từng bị người đời xa lánh, hắt hủi hàng thập kỷ.
Tại Khoa điều trị phong Bệnh viện Phong - Da liễu Trung ương Quỳnh Lập có một khu nội trú dành cho bệnh nhân. Điều đặc biệt của khoa này là phần lớn bệnh nhân đều chọn ở hẳn trong bệnh viện để tiện bề chữa trị và không muốn gia đình, người thân bị ảnh hưởng vì căn bệnh của mình.
Nhiều năm nay, một số bệnh nhân xem nơi đây là nhà, các bác sĩ, nhân viên của Khoa là người thân. Có bệnh nhân đã sống tại bệnh viện 67 năm, kể từ khi bệnh viện mới thành lập, lúc ấy có tên gọi là Trại phong Quỳnh Lập.
Chúng tôi ghé thăm khu điều trị bệnh nhân phong vào một sáng cuối tuần, nắng vừa lên, vài cụ già tranh thủ mang quần áo ra sân phơi. Họ - những con người từng bị người đời lãng quên, đã lặng lẽ dắt díu nhau về nương tựa nơi đây từ mấy chục năm nay.
Ngày đầu thành lập (năm 1957), Bệnh viện được đặt tên là Trại phong Quỳnh Lập, đến năm 1965 đổi tên thành Khu điều trị phong Quỳnh Lập.
Nhiệm vụ là điều trị, chăm sóc và nuôi dưỡng người bệnh phong thuộc các tỉnh phía Bắc, bộ đội toàn quân, công nhân viên chức cả nước, làm nghĩa vụ quốc tế cho người bệnh phong các nước bạn Lào, Campuchia, các tỉnh giáp biên của Trung Quốc.
Từ năm 1957 đến năm 1964, các dãy nhà cấp bốn được sửa sang tương đối khang trang, cơ sở vật chất được đầu tư, bệnh nhân vào viện được nhân viên y tế chăm sóc chu đáo, nhiệt tình. Có thể nói bệnh nhân như từ cõi chết trở về.
Nhưng thời kỳ chiến tranh ác liệt từ năm 1965 đến năm 1974, toàn bộ cơ sở vật chất mới được xây dựng bị sập đổ hoàn toàn sau một trận bom. Trên 200 bệnh nhân phong bị chết, số còn lại phải sống cảnh màn trời, chiếu đất.
Sau đó, phải hai lần đưa bệnh nhân đi sơ tán tại nơi rừng sâu, nước độc. Cán bộ thầy thuốc, bệnh nhân cùng ăn, cùng ở, cùng làm dưới làn mưa bom, bão đạn.
Ngồi trên giường bệnh, cụ Lê Trọng Diêu (SN 1934, quê quán xã Triệu Long, Triệu Hải, Bình Trị Thiên, nay là Quảng Trị) trầm ngâm nhớ lại: Những năm tháng dài đằng đẵng trong cuộc đời, cụ đã gắn bó với mảnh đất này, chứng kiến biết bao buồn vui.
Cụ không có gia đình, không có con cái, chỉ lầm lũi một mình. Mất đi đôi bàn chân, vết thương thể xác còn không thấm vào đâu so với những vết thương trong lòng. Ở một thế giới của những người bệnh “hủi”, mối liên hệ với thế giới bên ngoài dường như bị cô lập.
Không có người thân, không họ hàng, không bạn bè, mỗi người thu mình lại trong một thế giới riêng u ám. Sự kỳ thị giảm đi trong hai thập kỷ qua, nhưng mỗi năm cũng chỉ có ít người ghé thăm rồi vội vã rời đi.
Quẩn quanh trong bốn bức tường khiến khái niệm ngày đêm cũng chẳng rạch ròi, họ cắn răng chịu đựng những cơn đau hành hạ về cả tinh thần lẫn thể xác.
Còn đối với cụ Phạm Văn Vọng (1938, quê ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa), quá khứ như một thước phim quay chậm buồn bã. Hơn 90 tuổi, cụ Vọng là một trong những bệnh nhân đầu tiên của Trại phong Quỳnh Lập.
Năm 1957, cụ là lính thông tin, được kết nạp Đảng khi còn rất trẻ. Khi đang cùng đơn vị chiến đấu tại quê nhà, cụ phát hiện bị bệnh phong và được đưa vào Trại phong Quỳnh Lập.
Nhớ lại những ngày đó, ánh mắt cụ còn ngân ngấn nước, chia sẻ: “Xe chở đến cái đèo cao, nhìn xung quanh chỉ thấy lau lách, cỏ dại hoang vu, nhìn xuống phía dưới là thấy biển, tôi cứ tưởng người ta mang mình để đổ xuống biển.
Ngày đầu vào đây tôi chỉ có khóc, cơm không ăn. Lúc đó, cơm được đựng trong cái rổ tre, bên cạnh là vài con cá trích, vài cọng rau muống. Dãy nhà ở thì lụp xụp nằm dưới gốc cây…”.
Ký ức của nhiều “cư dân” Trại phong Quỳnh Lập như dừng lại ở đó. Quá nửa thế kỷ, họ sống trong một thế giới của những “người hủi”, biệt lập với thế giới bên ngoài. Sự sợ hãi vẫn ngăn cản những người không mang bệnh bước qua cánh cổng “trại phong”, và người bệnh bên trong cũng không dám bước ra ngoài.
Cuộc sống nơi đây đã từng có lúc đáng sợ hơn cái chết. Đó chính là sự mặc cảm, sự lạnh lùng, sự xa lánh của gia đình và cộng đồng. Họ đã bị bệnh tật hành hạ đau đớn, nhưng đau đớn hơn là sự quay lưng, mặc cảm vây hãm.
Thời kì đất nước khó khăn, kinh phí có hạn, thiên tai, bão lụt triền miên, đời sống của bệnh nhân phong vô cùng cực khổ, thiếu thốn.
Với mức trợ cấp ít ỏi, họ chỉ ăn hai bữa/ngày, gồm một bữa vào lúc 10 giờ sáng, một bữa vào lúc 3 giờ chiều. Những cơn đói về đêm quay quắt.
Giờ đã đổi khác, trụ sở mới với nhiều trang thiết bị tiện nghi hơn đang giúp những bệnh nhân nơi đây ngày càng có thêm nhiều hi vọng về một cuộc sống mới tươi sáng hơn.
Cực khổ, đau đớn sau màn đêm cuộc đời dài mấy thập kỷ, bằng nghị lực và niềm tin mãnh liệt, những bệnh nhân phong chưa khi nào thôi hi vọng về một cuộc đời tươi sáng hơn.
Và tia sáng của niềm hi vọng ấy đã được thắp lên bởi những y bác sĩ luôn túc trực bên cạnh họ để sẻ chia, yêu thương và che chở.
Thực hiện: Gia Ân - Thanh Thủy