Quốc hội thông qua Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)

Tống Toàn| 24/11/2014 18:30
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Chiều nay 24/11, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) với 415/426 đại biểu tán thành (đạt tỷ lệ 83,5%). Với tỷ lệ phiếu tán thành này, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Luật Tổ chức TAND (sửa đổi).

Quốc hội thông qua Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)

Ông Nguyễn Văn Hiện, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)

Được sự phân công của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, ông Nguyễn Văn Hiện, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã trình bày Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) trình Quốc hội thông qua.

Báo cáo nêu rõ, ngày 27/10/2014, tại Hội trường Quốc hội, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đã thảo luận, cho ý kiến về dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi). Trên cơ sở ý kiến ĐBQH, kết quả xin ý kiến các vị ĐBQH (bằng phiếu) về một số nội dung quan trọng, còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật, ý kiến đóng góp của các vị ĐBQH về dự thảo Nghị quyết thi hành Luật, UBTVQH đã tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật và dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội xem xét. 

Quốc hội thông qua Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)

Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)

Dưới đây là 7 vấn đề mà UBTVQH đã chỉnh lý, tiếp thu:

Một là, về quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp (Điều 2)

Có ý kiến đề nghị chỉnh lý điểm c khoản 3 theo hướng quy định Tòa án có thẩm quyền điều tra để thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự nếu xét thấy cần thiết.

Về vấn đề này, UBTVQH cho rằng: Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trong tố tụng hình sự, TAND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Dự thảo Luật không quy định Tòa án có chức năng, nhiệm vụ “điều tra để thu thập chứng cứ” như Cơ quan điều tra (CQĐT) hay Viện kiểm sát (VKS) là phù hợp với quy định của Hiến pháp, tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của TAND với CQĐT và VKS. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cũng như vậy. Theo quy định của BLTTHS, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Vì vậy, bổ sung quy định Tòa án có quyền thu thập, bổ sung chứng cứ khi xét thấy cần thiết theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định là hợp lý. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý điểm c khoản 3 Điều này như sau: "Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung; yêu cầu VKS bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của BLTTHS".

Hai là, về nguyên tắc TAND xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 11)

Có ý kiến đề nghị xem lại quy định tại khoản 2 Điều 11 của dự thảo Luật bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý lại khoản 2 Điều 11 cho phù hợp: "TAND xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì TAND có thể xét xử kín”.

Ba là, về tổ chức Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh (Điều 39)

Có một số ý kiến đề nghị ở TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần có Ủy ban Thẩm phán.

Về vấn đề này, UBTVQH đã chỉ đạo gửi phiếu xin ý kiến của ĐBQH. Kết quả có 153/373 (44,7%) phiếu đồng ý quy định TAND cấp tỉnh không có Ủy ban Thẩm phán; có 189/373 (55,3%) phiếu đồng ý quy định tại TAND cấp tỉnh có Ủy ban Thẩm phán.

Tiếp thu ý kiến đã nhận được của đa số ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý quy định tại khoản 2 Điều 39 của dự thảo Luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh như sau: “Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương họp do Chánh án chủ trì: 

a) Thảo luận về việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

b) Thảo luận Báo cáo công tác của Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với TANDTC và Hội đồng nhân dân cùng cấp;

c) Tổng kết kinh nghiệm xét xử;

d) Thảo luận về kiến nghị của Chánh án TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị Chánh án TAND cấp cao,Chánh án TANDTC xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo yêu cầu của Chánh án”.

Bốn là, về thẩm quyền của UBTVQH thành lập TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao và Tòa án quân sự (Điều 4)

Có ý kiến cho rằng UBTVQH không có thẩm quyền thành lập, tổ chức TAND  như quy định tại Điều 4 của dự thảo Luật. Vì thẩm quyền này của Quốc hội quyết định.

UBTVQH cho rằng khoản 6 Điều 70 của Hiến pháp năm 2013 quy định: Quốc hội có quyền hạn quy định tổ chức và hoạt động của TAND, VKSND. Điều 3 dự thảo Luật quy định tổ chức TAND gồm có TANDTC, các TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương và các Tòa án quân sự nhằm thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013. Để cụ thể hóa quy định tại Điều 3, trong các trường hợp cụ thể, dự thảo Luật giao thẩm quyền cho UBTVQH như quy định tại Điều 4 là phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Mặt khác, việc thành lập các Tòa án nêu trên đều liên quan đến tổ chức, biên chế, số lượng Thẩm phán của mỗi Tòa án. Những vấn đề này thuộc thẩm quyền quyết định của UBTVQH. Khi UBTVQH quyết định thành lập Tòa án thì đồng thời quyết định cả về tổ chức, biên chế… của Tòa án đó. Quy định này kế thừa quy định của Luật Tổ chức TAND hiện hành. Vì vậy, UBTVQH đề nghị giữ như quy định của dự thảo Luật.

Năm là, về nhiệm vụ phát triển án lệ của TANDTC (điểm c khoản 2 Điều 22)

Vấn đề này đã được UBTVQH giải trình trong Báo cáo số 748/BC-UBTVQH13 ngày 16/10/2014: Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, án lệ không phải là nguồn luật. Án lệ được Hội đồng Thẩm phán TANDTC tổng kết, phát triển từ các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án và công bố để cho các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý quy định tại điểm c khoản 2 Điều 22 của dự thảo Luật.

Sáu là, về điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán và Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia; Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán (các Điều 68, 69 và 73)

Có ý kiến đề nghị quy định theo hướng Thẩm phán trước khi được bổ nhiệm vào ngạch cao hơn phải trải qua kỳ thi nâng ngạch để phù hợp với pháp luật cán bộ, công chức; có ý kiến đề nghị không áp dụng việc thi tuyển vào ngạch Thẩm phán TANDTC.

Về vấn đề này, UBTVQH đã chỉ đạo xin ý kiến các vị ĐBQH bằng phiếu. Qua tổng hợp phiếu xin ý kiến của ĐBQH về việc Thẩm phán phải qua kỳ thi nâng ngạch để được bổ nhiệm Thẩm phán ở ngạch cao hơn thì có 269/373 phiếu tán thành, chiếm tỷ lệ 84,8%; có 53/373 phiếu không tán thành, chiếm tỷ lệ 15,2%.

Trên cơ sở ý kiến của ĐBQH, UBTVQH nghiên cứu, cân nhắc kỹ và thấy rằng ý kiến của đa số ĐBQH đề nghị áp dụng việc thi tuyển, thi nâng ngạch đối với các Thẩm phán là cần thiết để bảo đảm vừa đánh giá được năng lực, trình độ, vừa đánh giá được đạo đức, phẩm chất của Thẩm phán. Tuy nhiên việc thi tuyển, thi nâng ngạch nên áp dụng trong trường hợp bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, nâng ngạch đối với Thẩm phán sơ cấp lên Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán trung cấp lên Thẩm phán cao cấp; còn đối với Thẩm phán TANDTC là những chuyên gia giàu kinh nghiệm trong xét xử, được chọn lọc, thi tuyển qua nhiều ngạch Thẩm phán từ thấp lên cao thì tiếp tục áp dụng việc tuyển chọn như quy định hiện hành. Vì vậy, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉnh lý dự thảo Luật để quy định về điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán cao cấp (Điều 68); về điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC (Điều 69) và Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp (Điều 73).

Bảy là, về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quân sự (Điều 49)

Trên cơ sở ý kiến của ĐBQH qua phiếu xin ý kiến ĐBQH thì có 194/373 (56,6%) phiếu đồng ý phương án chỉ quy định về nguyên tắc “Tòa án quân sự được tổ chức trong quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS và thực hiện những nhiệm vụ khác theo quy định của luật”. Có 149/373 phiếu (43,4%) tán thành quy định theo phương án 2 của dự thảo Luật. Do số phiếu tán thành nhận được không đạt quá bán so với tổng số ĐBQH, UBTVQH đã nghiên cứu và nhận thấy đây là vấn đề phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau cần phải được cân nhắc kỹ bảo đảm đúng với chủ trương của Đảng đã được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự...”. Vì vậy, UBTVQH đề nghị tiếp tục kế thừa quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật Tổ chức TAND hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quân sự để quy định trong dự thảo Luật này; việc quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quân sự sẽ do BLTTHS quy định. Do đó, UBTVQH đề nghị  được thể hiện như quy định tại Điều 49 của dự thảo Luật.

Như vậy, Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) trình Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 có 11 Chương, 93 Điều đã được thông qua.

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Quốc hội thông qua Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)