Điều này thể hiện rõ nét khi tại Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII khi Quốc hội có nhiều đổi mới trong chất vấn, đặc biệt, lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Tại phiên họp chiều nay (23/2), Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Báo cáo tập trung đánh giá các mặt công tác về lập hiến, lập pháp; giám sát; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; công tác đối ngoại.
Công tác lập pháp đạt được bước tiến quan trọng
Tại phiên họp, trình bày báo cáo công tác của nhiệm kỳ khóa XIII của Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết, Quốc hội khóa XIII đã hoàn thành trọng trách thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, ghi đậm dấu ấn của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013 với tỷ lệ tán thành gần như tuyệt đối, thể hiện được ý Đảng, lòng dân và sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị; kế thừa và phát triển các giá trị cốt lõi, nền tảng của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và bổ sung nhiều nội dung quan trọng, phù hợp với đường lối, định hướng phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội trong nhiệm kỳ này đạt được kết quả nổi bật, hết sức quan trọng; kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, tạo nền tảng pháp lý cơ bản cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước trong giai đoạn tới.
Thông qua hơn 100 luật, bộ luật
Ngay sau khi Hiến pháp mới được thông qua, trong thời gian ngắn, Quốc hội đã tập trung xem xét, thông qua hầu hết các bộ luật lớn, các đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về lĩnh vực tư pháp, về lĩnh vực xã hội trên cơ sở bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo đảm an sinh xã hội.
Cụ thể, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã xem xét, thông qua 100 luật, bộ luật, 10 pháp lệnh và nhiều Nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Số lượng văn bản luật, pháp lệnh được thông qua trong nhiệm kỳ tăng nhiều so với các khóa trước đây, phản ánh bước tiến quan trọng trong công tác lập pháp của Quốc hội, tạo điều kiện cho sự hội nhập kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn 2011-2015 và các năm sau.
Quốc hội cũng đã có nhiều cải tiến, đổi mới trong quy trình lập pháp theo hướng nâng cao chất lượng, tăng tính chủ động, chặt chẽ, minh bạch, dân chủ, cụ thể trong văn bản luật.
“Số lượng văn bản luật, pháp lệnh được thông qua trong nhiệm kỳ tăng nhiều so với các khóa trước đây, phản ánh bước tiến quan trọng trong công tác lập pháp của Quốc hội, tạo điều kiện cho sự hội nhập kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn 2011-2015 và các năm sau”, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đánh giá.
Hoạt động chất vấn Quốc hội đổi mới theo hướng dân chủ ngày càng cao
Hoạt động giám sát của Quốc hội tiếp tục được đổi mới, tăng cường theo hướng ngày càng thiết thực, hiệu quả hơn, dân chủ, cởi mở, trách nhiệm, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, góp phần tích cực vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, thúc đẩy chuyển động mạnh mẽ trong hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng lần đầu tiên trả lời chất vấn Quốc hội
Kết quả giám sát trong nhiệm kỳ càng khẳng định rõ giám sát là phương tiện hữu hiệu trong thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong 5 năm qua, Quốc hội đã cân nhắc, lựa chọn để tiến hành nhiều nội dung giám sát quan trọng, từ những vấn đề kinh tế vĩ mô đến các vấn đề dân sinh bức xúc với nhiều hình thức phong phú, luôn song hành và phản ánh được hơi thở của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội. Các nghị quyết, kiến nghị giám sát ngày càng đúng, trúng trọng tâm vấn đề được đặt ra.
Hoạt động chất vấn của Quốc hội tiếp tục được đổi mới về chiều sâu, chú trọng về chất lượng, tinh thần xây dựng, trách nhiệm, tính dân chủ, công khai, tính tranh luận, đối thoại tăng lên rõ rệt qua từng kỳ họp. Cụ thể, trong nhiệm kỳ, Quốc hội đã tổ chức chất vấn trực tiếp tại 9 kỳ họp Quốc hội với hơn 40 lượt người trả lời chất vấn, hơn 1000 phiếu chất vấn và hàng ngàn câu hỏi được gửi đến Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các thành viên của Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng kiểm toán nhà nước.
Một điểm hoàn toàn mới của nhiệm kỳ khóa XIII là tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội tiến hành chất vấn trực tiếp những người đứng đầu các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề và hoạt động chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII, thể hiện việc theo dõi, giám sát đến cùng việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát, chất vấn nhiệm kỳ vừa qua, rút ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện chức năng quan trọng này của Quốc hội.
“Nhiều vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế - xã hội tiếp tục được đưa ra phân tích, xem xét thấu đáo dưới nhiều góc độ. Quốc hội đã ra nghị quyết về việc tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề và hoạt động chất vấn, yêu cầu Thủ tướng Chính phủ, các vị bộ trưởng, trưởng ngành tiếp tục thực hiện có kết quả những vấn đề đã hứa trước Quốc hội và cử tri cả nước”, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết.
Đặc biệt, nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII cũng đã đánh dấu một dấu mốc lịch sử khi lần đầu tiên Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Đưa ra các quyết sách linh hoạt, đáp ứng thực tiễn
Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII ngày càng có chất lượng, giảm dần tính hình thức, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế.
Cùng với việc quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội, Quốc hội xem xét thận trọng, quyết định đúng đắn các vấn đề về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm, phân bổ các nguồn lực tài chính quan trọng khác như vốn trái phiếu Chính phủ, vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia, vốn hỗ trợ có mục tiêu,…
Đại biểu Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm 50 chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn
Đặc biệt, trong điều kiện ngân sách khó khăn, Quốc hội đã quyết định giảm các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết và kém hiệu quả; bố trí vốn bảo đảm tỷ lệ chi cho các ngành, lĩnh vực quan trọng, cấp thiết; có nhiều giải pháp quyết liệt để cân đối thu - chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
“Thực tế đã khẳng định sự cần thiết, đúng đắn và kịp thời của những quyết sách của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII trong việc tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường hội nhập quốc tế”, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc nhấn mạnh.
Một số hạn chế tại Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII
Báo cáo tại phiên họp, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đã khẳng định, nhiệm kỳ khóa XIII đánh dấu sự thành công vượt bậc trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội trên cả bình diện đa phương và song phương. Đồng thời, việc tổ chức thành công IPU-132 là sự kiện chính trị-ngoại giao lịch sử, thể hiện tinh thần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng của QH nước ta, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, cũng theo Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc nêu rõ tại Báo cáo, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động lập pháp vẫn còn một số hạn chế nhất định. Đó là chưa khắc phục đáng kể việc điều chỉnh thường xuyên chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Một số đạo luật còn có quy định chưa phản ánh đầy đủ, xác thực nhu cầu cuộc sống nên hiệu quả điều chỉnh và tính khả thi không cao. Một số quy định vẫn còn mang tính nguyên tắc chung nên khi triển khai thực hiện vẫn phải phụ thuộc vào văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Giữa các văn bản khác nhau vẫn còn có trường hợp quy định thiếu tính thống nhất.
Trong một số trường hợp cơ quan thẩm tra chậm phối hợp hoặc phối hợp chưa hiệu quả với cơ quan soạn thảo, cùng với việc tài liệu phục vụ thẩm tra thường xuyên gửi chậm, nên khó bảo đảm cho việc xem xét kỹ lưỡng, toàn diện cả về nội dung và tính khả thi của quy định, dẫn đến chất lượng thẩm tra không cao, chưa thể hiện rõ nét tính phản biện.
Việc thảo luận, tranh luận, làm rõ vấn đề trong quá trình xem xét, thông qua luật có lúc còn hạn chế, nhất là việc bảo đảm để tranh luận đầy đủ, đối thoại đến cùng giữa đại biểu Quốc hội và cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra.
“Công tác chuẩn bị đối với một số dự án luật còn thiếu sự quan tâm đầu tư, dẫn đến việc không bảo đảm tiến độ, chất lượng văn bản trình Quốc hội; trong không ít trường hợp, khâu lập, phân tích chính sách, đánh giá tác động của dự án luật chưa được thực hiện một cách kỹ lưỡng, có chất lượng. Việc tổ chức lấy ý kiến và sử dụng các chuyên gia, các nhà khoa học chưa đạt hiệu quả cao”, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc nêu rõ.
Bên cạnh đó, việc quyết định một số vấn đề quan trọng trong một số trường hợp chất lượng chưa cao; việc đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước chưa bảo đảm sát thực tế.