Tòa án địa phương

Nỗi niềm người “lính gác công lý”

Hà Thái Thơ – Phó Chánh án TAND khu vực 13 - Cần Thơ 11/09/2025 - 11:24

Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất trong bộ máy Nhà nước được thực hiện quyền xét xử. Và thực hiện quyền ấy là Hội đồng xét xử, trong đó Thẩm phán - chức danh được Chủ tịch nước bổ nhiệm - là một thành viên. Bởi vậy, mỗi Thẩm phán khi "cầm cân nảy mực" không chỉ đại diện cho pháp luật, mà còn đại diện cho niềm tin công lý của nhân dân.

Sứ mệnh cao cả của người Thẩm phán

Ngày 13/9/1945, ngay sau khi giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập các Tòa án Quân sự – tiền thân của hệ thống Tòa án nhân dân.

Trải qua 80 năm, các thế hệ Thẩm phán đã không ngừng phấn đấu để xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần giữ vững kỷ cương, củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý. Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị thế của Tòa án và đội ngũ Thẩm phán ngày càng được đề cao.

Chức danh Thẩm phán là đích đến vinh dự của hầu hết công chức hệ thống Tòa án; là kết quả của bao năm phấn đấu không ngừng. Khoác áo choàng đen và tuyên đọc phán quyết nhân danh công lý là niềm tự hào lớn lao. Niềm tự hào ấy không chỉ vì danh vị cá nhân, mà vì ý thức đang gánh vác trách nhiệm bảo vệ công lý, đại diện cho quyền lực công minh của Nhà nước trước nhân dân.

Công việc xét xử thường xuyên chứng kiến những cảnh đời éo le, tranh chấp căng thẳng, thậm chí mặt trái thế thái nhân tình. Nhưng nghề này cũng mang lại nhiều niềm vui.

Niềm vui đến từ việc thấy lẽ phải được thực thi, kẻ xấu bị trừng trị; hoặc từ những khoảnh khắc nhân văn khi Thẩm phán giúp các bên hòa giải, hàn gắn quan hệ. Có những đương sự từ chỗ coi nhau là kẻ thù đã bắt tay giảng hòa ngay tại Tòa nhờ sự kiên trì thuyết phục của Hội đồng xét xử. Đó là những giây phút hạnh phúc nhất, khi người Thẩm phán thấy mình góp phần hóa giải hận thù, giữ được tình nghĩa giữa người với người.

Niềm vui của Thẩm phán nhiều khi giản dị, đơn giản là một bản án không bị kháng cáo vì các bên đã tâm phục, khẩu phục; một mâu thuẫn được giải quyết dứt điểm, một giọt nước mắt ân hận được lau khô. Đó là phần thưởng tinh thần lớn nhất, tiếp thêm sức mạnh để người Thẩm phán kiên định với nghề.

z4281311101181_b8d457ac9ea117070cc8bfb5d96fb5ae-2.jpg
Một phiên tòa xét xử do Thẩm phán Hà Thái Thơ làm chủ tọa.

Nhìn lại chặng đường đã qua, mỗi Thẩm phán đều có thể mỉm cười mãn nguyện với những cống hiến thầm lặng – từ những đêm trăn trở trước hồ sơ khó, đến sự tận tụy bảo vệ lẽ phải. Chính sự lặng lẽ ấy tạo nên niềm tự hào riêng biệt "vinh quang trong lặng lẽ, nhưng cao quý vô cùng".

Những nốt trầm của nghề

Đằng sau vinh quang ấy là muôn vàn khó khăn, thách thức. Trước hết là áp lực công việc khi mà mỗi năm, số vụ án ngày càng nhiều, yêu cầu chất lượng xét xử ngày càng cao. Chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể gây hậu quả lớn, làm tổn hại đến quyền lợi người dân, uy tín Tòa án và trách nhiệm nghề nghiệp của cá nhân Thẩm phán.

Đặc thù xét xử buộc Thẩm phán phải đối diện với tội phạm và những mâu thuẫn gay gắt của xã hội. Nguy cơ bị đe dọa, trả thù luôn rình rập, đặc biệt trong các vụ án nghiêm trọng. Không ít Thẩm phán từng nhận lời đe dọa hoặc đối diện hành vi manh động ngay tại Tòa. Điều kiện đảm bảo an ninh đôi khi chưa đầy đủ, khiến họ phải chấp nhận hiểm nguy như một phần công việc. Dẫu vậy, người Thẩm phán luôn giữ vững bản lĩnh để hoàn thành sứ mệnh “lính gác công lý”.

Cám dỗ cũng là thử thách lớn, Thẩm phán nắm quyền quyết định số phận pháp lý, nên dễ bị chi phối bởi tiền bạc, lợi ích. Chỉ một bản án thiếu công minh do tiêu cực cũng đủ làm ảnh hưởng uy tín cả nền tư pháp. Xã hội luôn giám sát nghiêm ngặt; niềm tin của nhân dân là thước đo khắt khe buộc người Thẩm phán phải tự soi, tự rèn luyện không ngừng. Vì vậy, giữ gìn liêm chính là trách nhiệm thường trực của Thẩm phán.

Khó khăn của nghề còn đến từ yêu cầu kiến thức: ngoài pháp luật, Thẩm phán phải am hiểu kinh tế, xã hội, tâm lý, tập quán… để có thể đưa ra phán quyết “thấu tình đạt lý”. Mỗi vụ án lại đòi hỏi kiến thức chuyên môn khác nhau, buộc Thẩm phán phải không ngừng học hỏi, tự hoàn thiện.

Xã hội còn đòi hỏi ở Thẩm phán những phẩm chất mẫu mực, đạo đức trong sáng, lòng dũng cảm, dám đấu tranh với cái xấu; thượng tôn pháp luật, chí công vô tư, có tinh thần trách nhiệm và tấm lòng nhân hậu. Nếu kém phẩm chất, dù giỏi nghiệp vụ, chất lượng xét xử cũng không được bảo đảm. Bởi vậy, mỗi Thẩm phán luôn tự nhắc nhở phải giữ vững “cần, kiệm, liêm, chính”, không để danh lợi lung lay ý chí.

Nghề Thẩm phán còn là sự hy sinh thầm lặng, hy sinh thời gian riêng tư, sở thích cá nhân, thậm chí sức khỏe và sự bình yên gia đình. Nhưng chính những gian nan ấy đã tôi luyện bản lĩnh và lòng yêu nghề. Nhìn vào khó khăn để không chùn bước, coi áp lực như động lực vươn lên – đó là cách để người Thẩm phán bám trụ với nghề, xứng đáng với hai chữ “công lý” mà xã hội giao phó.

Không ngừng rèn luyện để xứng đáng với nhân dân

Đứng trước trọng trách vẻ vang nhưng đầy thách thức, mỗi Thẩm phán cần có kế hoạch rèn luyện toàn diện, nhằm xứng đáng với niềm tin của nhân dân và vị thế cao quý của người “bảo vệ công lý”. Đại thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều từng viết:

“Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”

Với người Thẩm phán, chữ Tâm – cái tâm trong sáng, nhân ái – có khi quan trọng gấp ba lần chữ Tài. Tài năng, kiến thức, uy quyền nếu thiếu đi cái tâm công minh, nhân ái sẽ dễ lạc lối. Ngược lại, có Tâm mà vững, người Thẩm phán sẽ biết dùng Tài cho đúng – vừa nhuần nhuyễn pháp luật, vừa thấu hiểu đạo lý, đủ bản lĩnh để mang lại công lý thực sự.

z6956364352506_942d054437030daf74bcc9525fcf272b.jpg
TAND khu vực 13 - Cần Thơ tại buổi ký kết quy chế phối hợp về việc thực hiện một số hoạt động tư pháp.

Trong sự nghiệp rèn luyện ấy, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kim chỉ nam quý báu. Bác căn dặn cán bộ Tòa án phải “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”; phải “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.

Khi đánh giá con người, Bác nhấn mạnh: “Không được vì công mà quên lỗi; không được vì lỗi mà quên công”. Người còn dạy: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp là vấn đề ở đời và làm người”. Và hơn thế, Bác đề cao tính phòng ngừa: “Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”.

Những lời dạy ấy vừa là định hướng, vừa là thước đo. Người Thẩm phán phải vừa nghiêm minh bảo vệ pháp luật, vừa nhân văn để tạo cơ hội cho con người sửa chữa. Mỗi vụ hòa giải thành công, mỗi bản án công tâm chính là cách hiện thực hóa lời Bác.

Chúng tôi hiểu rằng, để xứng đáng với vị thế “quan tòa” mà nhân dân giao phó, Thẩm phán phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ, tu dưỡng phẩm chất, giữ gìn liêm chính, hết lòng vì công việc. Mỗi Thẩm phán phải coi việc giữ gìn phẩm giá nghề nghiệp như giữ gìn danh dự chính mình.

Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước thông qua cải cách tư pháp và hoàn thiện thể chế, cùng sự rèn luyện kiên định của từng người, ngành Tòa án sẽ ngày càng vững mạnh. Về phần mình, chúng tôi nguyện khắc ghi lời Bác, phấn đấu trở thành những người “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” trong từng phán quyết, xứng đáng với sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nỗi niềm người “lính gác công lý”