Hôm nay (13/7), Ban Dân vận Trung ương phối hợp với TANDTC, Bộ Tư pháp và Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến “Công tác dân vận trong hoạt động hòa giải”.
Tham dự và cùng chủ trì Hội nghị có các đồng chí: Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương; Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam; Nguyễn Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC; Lê Thành Long, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Đến dự tại điểm cầu Trung ương còn có đồng chí Vũ Đức Đam, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành ở Trung ương và đại biểu tại 63 điểm cầu tại địa phương.
80,6% hòa giải thành mang lại nhiều ý nghĩa sâu sắc
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Trưởng ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai nhấn mạnh, hoạt động hòa giải đã tồn tại từ lâu trong đời sống xã hội, là cách thức tốt đẹp được lựa chọn để giải quyết xích mích giữa các cá nhân, gia đình trong cộng đồng dân cư, góp phần phát huy văn hóa dân tộc, tăng cường tình làng, nghĩa xóm, mối liên kết tình cảm của văn hóa làng xã.
Thời gian qua, với sự tham gia tích cực của MTTQ Việt Nam, ngành Tư pháp, chính quyền các địa phương, nhất là chính quyền ở cơ sở, hoạt động hòa giải ở cơ sở đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương phát biểu khai mạc Hội nghị
Việc hòa giải thành sẽ hàn gắn và khôi phục tình cảm giữa các bên tranh chấp, giúp duy trì mối quan hệ đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng. Vì thế, hòa giải ở cơ sở là chỗ dựa cho việc tổ chức một xã hội đoàn kết, hòa hợp, đồng thuận, người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề cho ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Qua 6 năm thi hành, Luật Hòa giải ở cơ sở đã đi vào nền nếp, hiệu quả và tiếp tục khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống xã hội với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp, xung đột trong đời sống nhân dân một cách nhân văn, ít tốn kém, hiệu quả bền vững.
Con số gần 100.000 tổ hòa giải cơ sở, 600.000 hòa giải viên, gần 900.000 vụ, việc đã được tiến hành hòa giải trong 5 năm qua với tỷ lệ 80,6% hòa giải thành mang lại nhiều ý nghĩa sâu sắc, không chỉ hàn gắn những xích mích, mâu thuẫn phát sinh, mà còn tăng cường sự hiểu biết, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết, thắt chặt tình cảm, góp phần cho sự bình yên, ổn định, giảm bớt gánh nặng cho chính quyền cơ sở, góp phần cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội các địa bàn dân cư.
Trưởng ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai cũng cho biết, đến nay, với Luật Hòa giải ở cơ sở, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và hoạt động của hòa giải viên lao động, trọng tài lao động trong quy định của Bộ luật Lao động góp phần giải quyết tranh chấp lao động, cùng với các cơ chế hòa giải, đối thoại được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng... hoạt động hòa giải đã bao quát hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội.
Phát huy vai trò Tòa án trong công tác hòa giải
Phát biểu tại Hội nghị, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình cho biết, hòa giải là một thiết chế đa năng, giải quyết tất cả các xung đột dân sự, kinh tế, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình... Để hòa giải thành công không chỉ có hiểu biết pháp luật, chuyên môn sâu mà điều quan trọng là phải có tấm lòng nhân ái, thiện tâm.
Thực chất của hòa giải tại Tòa án chính là công tác dân vận. Ở tất cả vụ việc hòa giải thành đều thấy có phương pháp dân vận khéo. Phương pháp vận động, chạm đến trái tim, làm thức tỉnh lòng cao thượng, sự vị tha, sẵn sàng chia sẻ, cảm thông của các bên tranh chấp thì mới thành công. Ngoài ra, để các thiết chế hòa giải thành công thì trách nhiệm, tấm lòng của hòa giải viên là yếu tố đặc biệt quan trọng.
Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình đề nghị, thời gian tới, tất cả các Tòa án, đặc biệt là các Thẩm phán phải xem nhiệm vụ hòa giải là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng.
Theo Chánh án TANDTC, thực hiện chủ trương đổi mới công tác dân vận, tăng cường hiệu quả hòa giải, đối thoại và thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, TANDTC đã triển khai thì điểm đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại 16 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đạt tỷ lệ 78,08%. Trên cơ sở tổng kết kết quả thí điểm, TANDTC đã hoàn thiện, trình Quốc hội hồ sơ Dự án Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV đã biểu quyết thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021.
Đề cập đến việc phát huy vai trò nòng cốt của Tòa án, Chánh án Nguyễn Hòa Bình đề nghị, thời gian tới, tất cả các Tòa án, đặc biệt là các Thẩm phán phải xem nhiệm vụ hòa giải là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng. Các Thẩm phán phải tham gia đầy đủ và có trách nhiệm tất cả các thiết chế hòa giải từ hòa giải cơ sở đến hòa giải tại Tòa án; Ban dân vận các địa phương, các cấp ủy cần quan tâm chỉ đạo để đưa Luật Hòa giải đi vào cuộc sống.
Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở phát hiểu tại Hội nghị
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh, muốn “khéo” thì các hòa giải viên, cán bộ, chính quyền các cấp không chỉ chú trọng công tác dân vận, hòa giải nói riêng mà đặc biệt phải nắm chắc các quy định của pháp luật, phải có lý, có tình. Muốn dân hiểu thì phải có uy tín, nói trên quan điểm của nhân dân, xuất phát từ tấm lòng.
Trong hòa giải cũng như thực hiện công tác dân vận ngoài việc tham gia để làm cho các mâu thuẫn từ to thành nhỏ, từ nhỏ thành không có gì, góp phần tiết kiệm thời gian của bộ máy và không khí xã hội tốt hơn thì trong quá trình thực hiện hòa giải nói riêng và công tác dân vận nói chung phải nắm sát tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, cũng như những bất cập trong cơ chế, chính sách của nhà nước, pháp luật. Đây cũng là một kênh rất quan trọng để phản biện chính sách, cùng nhau hoàn thiện chính sách, pháp luật.
Quang cảnh Hội nghị
Theo Báo cáo cho thấy, năm 2019, hầu hết các địa phương đã bố trí kinh phí thù lao cho hòa giải viên, hỗ trợ các tổ hòa giải hoạt động với tổng giá trị hơn 35 tỷ đồng. Từ năm 2014-2019, các tổ hòa giải cơ sở trên cả nước đã tiến hành hòa giải 875.312 vụ, việc; hòa giải thành công 707.945 vụ, việc (đạt tỷ lệ 80,9%); hòa giải không thành 167.367 vụ, việc.
Trung bình mỗi năm, các tổ hòa giải ở cơ sở trên phạm vi cả nước đã tiến hành hòa giải trên 140.000 vụ, việc và hòa giải thành công trên 120.000 vụ, việc. Số lượng các vụ, việc không phải đưa ra giải quyết tại cơ quan nhà nước đã tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền của cho nhân dân; giảm tải công việc cho các cơ quan tư pháp và giảm bớt gánh nặng chi tiêu cho ngân sách nhà nước.
Có được kết quả trên có nhiều nguyên nhân. Trong đó, có thể nói hoạt động hòa giải ở cơ sở đã có sự gắn kết với công tác dân vận. Hòa giải viên ở cơ sở là người gần dân, sát dân, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của dân, trong quá trình hòa giải họ không chỉ dùng uy tín, đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc mà còn phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, để nâng cao nhận thức pháp luật và xây dựng ý thức thượng tôn pháp luật trong Nhân dân.
Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về công tác hòa giải ở cơ sở. Đa dạng hóa nguồn lực xã hội trong công tác hòa giải ở cơ sở, đặc biệt là nguồn nhân lực có kinh nghiệm và hiểu biết pháp luật trong giải quyết tranh chấp như đội ngũ luật sư, luật gia, cán bộ công chức đã từng công tác trong lĩnh vực pháp luật. Đồng thời, tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019-2022” được ban hành theo Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ…
Tại Hội nghị, một số ý kiến cũng nêu lên những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong công tác hòa giải ở cơ sở như: một số quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở không còn phù hợp; chất lượng đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở chưa đều, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; công tác hòa giải cơ sở chưa gắn kết với công tác dân vận...