Nghề báo đưa đẩy tôi đến với nhiều vùng đất nằm dọc dài biên giới Việt Nam, từ đất Mũi Cà Mau tới địa đầu Lũng Cú, từ trảng bàng Hà Tiên đến mút ngọn rừng dương Trà Cổ.
Khi đặt chân đến những vùng đất thăm thẳm ấy, được ăn, ngủ trong những buôn làng oi mùi khói bếp, điều làm tôi ấn tượng không chỉ là tấm chân tình, hào sảng của đồng bào, mà còn là cả những điệu dân ca, dân vũ, những khúc nhạc đắm say tạo nên bản sắc văn hóa rất riêng biệt của các tộc người nơi biên ải.
Điệu cồng chiêng rền vang trên đất Tây Nguyên
1. Theo ước tính, hiện khu vực biên giới quy tụ trên 40 sắc dân với nhiều hệ ngôn ngữ khác nhau. Dải đất biên cương nước Việt trải mấy nghìn năm đã là nơi nương náu an toàn cho người dân bản địa và các bộ tộc thiên di từ hải đảo phía Nam lên và từ phương Bắc xuống. Núi liền núi, sông liền sông, đồng liền đồng, các dân tộc dọc chiều dài biên giới đã chung sống hòa bình, nương tựa vào nhau để tạo dựng làng bản, đồi nương, khắc chế thiên tai địch họa, duy trì giống nòi và truyền thống văn hóa dân tộc…
Chính những sắc dân này đã tạo nên những nếp sống và nền văn hóa hết sức đặc thù và đa dạng. Đồng bào các dân tộc ở Bình Liêu (Quảng Ninh) có rất nhiều điệu dân ca, dân vũ và các lễ hội văn hóa, tâm linh đặc sắc, nhưng điều họ tự hào hơn cả chính là tiếng đục, tiếng thanh của "Đàn đá thần" thiên nhiên ban tặng trên đỉnh Cao Ba Lanh vòi vọi. Đàn được hình thành từ nhiều hòn đá lớn với nhiều hình thù khác nhau, gắn với truyền thuyết chống giặc của đồng bào. Cạnh đàn đá còn có đôi rùa đá đang kỳ sinh nở hướng ra hồ nước. Cách đó không xa là tượng nhân sư hướng mặt về bản làng để bảo vệ dân làng, bảo vệ vùng đất thiêng liêng nơi biên cương của Tổ quốc.
Khi phát hiện những biểu hiện bất thường, người phụ trách việc canh phòng sẽ gõ vào đàn đá để truyền tin cho dân bản biết để chuẩn bị chống trả kẻ thù. Âm thanh từ đàn đá thần dẫu không thật hay, thật dịu êm, tinh khiết như lời hát, tiếng đàn, nhưng đối với bà con các dân tộc Bình Liêu thì đó chính là khúc nhạc tuyệt vời nhất. Bởi có bài ca nào, khúc nhạc nào quý giá hơn lòng yêu nước và tinh thần chống giặc ngoại xâm, bảo vệ cõi bờ. Nghe tiếng đàn, gặp những người dân thuần hậu nơi đây, người ta sẽ thêm hiểu, đường biên giới trong lòng dân còn vững chắc hơn bất cứ loại vật liệu, ranh giới hữu hình nào.
Nổi danh với điệu sli, lượn, với tiếng đàn tính trong như tiếng suối, cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng trên biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng có cách nói năng, ví von mộc mạc đến giản dị trong tư duy, cách nghĩ và cách quan sát của họ. Đến chốn núi ngà Phja Boóc, ta sẽ dễ dàng bắt gặp đâu đó trong dáng núi có màu áo hoa của sơn nữ đi làm cỏ lúa, tiếng hát vút cao khiến hương quế, hương hồi cũng cuống quýt, nồng nàn ẩn trong nếp áo. Đã vậy, lời hát như tiếng con chim Queng Quy hót vào lòng người, giọng ca này chưa dứt thì tiếng sli, lượn khác lại nối âm. Để rồi lòng khách thượng sơn cứ thế mà theo “bước đá, bước mây”, để tiếng then, tiếng lượn đưa đường mà về với mỗi nếp sàn ấm áp trên sóng đá quê hương.
Rồi những đêm múa vòng trong âm hưởng trầm hùng của tiếng trống đồng cùng những chủ nhân đầu tiên của vùng cao nguyên đá Đồng Văn, dân tộc Lô Lô trên thung lũng Thèn Pả, nơi có đỉnh núi Rồng, có cột cờ Lũng Cú. Hàng trăm năm nay, trong mỗi câu chuyện bên bếp lửa, người già ở vùng đất địa đầu Tổ quốc này vẫn hay kể cho con cháu rằng: Vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở đây một chiếc trống lớn, để khi biên cương có giặc thì nổi trống báo hiệu cho quân triều đình đến ứng cứu và đồng thời cũng như một sự khẳng định chủ quyền.
Qua thời gian, giờ chỉ còn lại một cặp trống có niên đại ước chừng 600 năm đã mòn vẹt. Thế nhưng hiện người Lô Lô còn lưu giữ được đến 36 điệu đánh trống đồng để giữ nhịp cho các bài múa. Mỗi dịp tế trời đất, cúng ma cho người chết hay tổ chức Lễ cúng tổ tiên vào tháng 7 âm lịch hàng năm, người ta mới đem những chiếc trống cổ cùng những vũ điệu nguyên sơ ra để trình diễn như một phức điệu đẹp của núi rừng.
2. Và tôi sẽ chẳng bao giờ quên khoảnh khắc tuyệt vời một chiều cuối thu, trong không gian rừng núi bên dòng Đà giang thẳm dốc, điệu múa sơn cước của các thiếu nữ Si La tha thướt, dịu dàng, đong đầy nét duyên một thuở. Nhìn điệu múa đắm say ấy, tôi tự hỏi liệu đây có phải là những bước chân thiên di khi vượt ngàn băng núi với ước vọng về một miền đất trái ngọt cây lành còn đang ở trước mặt đợi chờ. Ngoài điệu múa “Chò trì si a”, tạm dịch là “khăn thêu” này, người Si La còn gìn giữ một số điệu múa trong các lễ hội như cầu mùa, vào mùa với các động tác mô phỏng hiện tượng thiên nhiên hay trong lao động và có sự giao thoa cùng ảnh hưởng lớn từ các dân tộc xung quanh như Hà Nhì, Thái, Mông…
Điệu múa của các thiếu nữ Si La
Còn những người anh em Pa Cô sống trên địa bàn biên giới các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế lại lưu giữ vốn cổ của mình qua tiếng đàn ta lư, qua điệu A dà lúc tha thiết nhớ thương, lúc trách hờn, giận dỗi. Trai gái Pa Cô đi sim tìm hiểu nhau dùng đàn talư, hát bài Păn tưi (lẻ loi) da diết kể về nỗi buồn của chàng trai vượt núi băng sông tìm bạn yêu, nhưng người ấy đã bị chàng trai khác giành mất. Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi niềm vui hay nỗi buồn của bản làng đều có sự hòa nhịp của chiêng, của cồng, của khèn bè ciên, của đàn a ben với điệu Hiê réo rắt…
Biên giới xứ trầm hương Quảng Nam lại là nơi lưu giữ những thanh âm tuyệt vời của dân tộc Jẻ Triêng và Cơ Tu. Văn hóa tộc người Cơ Tu không chỉ đa dạng và phong phú, mà còn tiềm ẩn trong đó biết bao triết lý nhân sinh quan của những con người đã quen sống khoáng đạt giữa núi rừng. Độc đáo nhất có lẽ là điệu p'rá pr'ma, têng bh'noóch, tr'a (nói lý - hát lý truyền thống)... Điệu hát này là hình thức ứng khẩu sử dụng vào mục đích sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong đời sống người Cơ Tu. Nói lý, hát lý không nhất thiết là phải dùng triết lý để phân tích một sự việc hiện tượng, mà dùng hình tượng ẩn dụ, nhân hóa ví cái này hiểu nghĩa cái kia.
Theo dòng sông Auna hiền hòa, thơ mộng chảy giữa cao nguyên bazan huyền thoại, sẽ tuyệt vời biết bao nếu được nghe nghệ nhân A Lưu, A Bek (dân tộc Ba Na), Y Yon (dân tộc Gia Rai) rỉ rả những bản trường ca của đất trời Tây Nguyên từ đầu hôm đến sớm mai. Để nhận ra tâm hồn người Tây Nguyên trầm lắng êm ả hòa theo bài Kdor đối đáp dưới dạng đồng ca, xướng xô, kể câu chuyện ngàn năm trước đây các dân tộc đến với đất nước này. Đặc biệt, những trường ca của các dân tộc Tây Nguyên qua lời hát kể của các nghệ nhân đã hoàn thành sứ mạng của mình là nối liền quá khứ nghìn năm và hiện tại một cách đầy sinh động.
3. Một trong những nét độc đáo và đa dạng của nền âm nhạc dân gian trên khắp dải biên cương mà tôi đã từng qua đó chính là hàng trăm loại nhạc cụ và các làn điệu dân ca, dân vũ truyền thống của các sắc dân. Điểm tương đồng dễ nhận thấy là đa phần các nhạc cụ đều được chế tác từ lá, tre nứa và thân cây rừng, nhưng không vì thế mà làm giảm đi nhạc cảm của những người được thưởng thức. Các nghệ nhân đã ghép những ống nứa dài ngắn khác nhau để tạo nên nào đàn môi, khèn, sáo, tính tẩu, khạp luống, ciên, đinh tút, klôngpút, đinh jơi, trôsô, tà khê… Mỗi dân tộc một màu sắc, một âm điệu đã khiến cho bài ca của núi rừng thể hiện mọi trạng huống cảm xúc của con người trước thiên nhiên và cuộc sống.
Song, điều kỳ diệu nhất mà cộng đồng các dân tộc thiểu số trên biên giới mang lại cho kho tàng văn hóa và âm nhạc nước nhà có lẽ chính là sự hùng tráng bất tận của cồng chiêng. Trong đời sống sinh hoạt văn hóa của hàng chục dân tộc như Mường, Vân Kiều, Tà Ôi, Kơ Tu, H'rê, Kdong, Chăm H'roi, Răk Lây, Giẻ Triêng, Mông, Ba Na, K'ho, Gia Rai, Xê Đăng, Ê Đê, Khmer…, dường như không lúc nào thiếu đi tiếng cồng chiêng. Nó ngân nga trong lễ mời ông bà đi gieo hạt, lễ ăn cơm mới, lễ bỏ mả hay những ngày hội mừng bản làng, đất nước đổi mới. Một đêm nhảy múa quanh đống lửa bên nhà rông - nơi trước đây từng là hố bom cày, nghe dàn cồng chiêng dân tộc Rơ Măm ở biên giới Kon Tum, ta sẽ thấy tiếng cồng chiêng là hơi thở, là máu huyết của đồng bào.
Đi trên đường tuần tra biên giới dài hàng nghìn kilomet, chạy qua vòi vọi núi cao, thăm thẳm sông dài của 25 tỉnh, thành biên giới đất liền từ Quảng Ninh cho đến Kiên Giang, người ta sẽ cảm nhận được một sức vươn bền bỉ của mỗi một vùng đất còn nhiều tiềm năng chưa khai phá. Đến với biên cương, hòa mình vào các điệu dân ca, dân vũ của đại ngàn, người ta cũng sẽ dễ dàng tìm thấy trong lịch sử, trong tự nhiên, trong văn hóa, trong con người nơi đây bao điều để suy ngẫm về lẽ đời, về cuộc sống. Và hơn thế nữa, trên mỗi tấc đất biên thùy đều in dấu chân của cha ông thuở trước, cứ lần theo những bước chân ấy, người ta sẽ lắng nghe được nhiều câu chuyện như còn đang rì rầm trong mạch nguồn lịch sử.