Trong kỳ 2, bạn đọc đã biết, vào năm 1987, một người đàn ông tên là Robert Lazar đã làm cả thế giới chấn động, khi tuyên bố trên truyền hình rằng ông đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc và trở thành vật thí nghiệm.
Ông nói rằng chính phủ Mỹ sở hữu những tàu vũ trụ của người ngoài hành tinh, nghiên cứu và áp dụng các công nghệ này vào lĩnh vực quân sự, không quân. Ông cho biết nguồn nguyên liệu mà họ sử dụng có tên là “Element 115, hãng hàng không EG&G còn thuê Lazar để thực hiện những nghiên cứu liên quan đến vật chất này. Vậy sự thật về những lời tuyên bố này là gì?
Người đàn ông tên là Robert Lazar (thứ 2 từ trái sang) đã làm cả thế giới chấn động khi tuyên bố trên truyền hình rằng ông đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc
Những đồn đại và sự thật
Những người hoài nghi đã phân tích và điều tra về tính xác thực trong lời nói của Lazar, và họ đã phát hiện ra những điểm bất hợp lý. Đầu tiên, Lazar nói rằng ông là một nhà khoa học và có bằng thạc sĩ tại CalTech và MIT, nhưng không có bằng chứng ông đã từng học tại hai trường đại học đó. Biện minh cho điều này, Lazar cho rằng chính phủ Mỹ đang cố gắng làm giảm uy tín và xóa danh tính của ông nhằm che đậy sự thật. Tuy nhiên, nếu chính phủ Mỹ bắt buộc phải xóa danh tính, thì họ sẽ phải loại bỏ tên của Lazar trong cả niên giám của trường trung học, nhưng điều này là không có thật. Do đó, có thể thấy rằng vụ việc nổi tiếng năm 1987 chỉ là dựng chuyện dựa trên một thử nghiệm quân sự nào đó tại Area 51.
Bên cạnh vụ việc năm 1987, còn có những đồn đại về một tổ chức bí mật đứng sau Area 51, được gọi là MJ-12. Tổ chức này bao gồm những người có tầm ảnh hưởng rất lớn, từ tổng thống Harry S. Truman, người đứng đầu các tổ chức như CIA và các doanh nhân lớn khác. Nhiều tài liệu bí mật của tổ chức này đã được tiết lộ, chủ yếu là những báo cáo về UFO và việc nghiên cứu, trong đó có cả chữ ký của tổng thống. Tuy nhiên, sau khi được xem xét lại một cách kỹ lưỡng, các chữ ký là được sao chép từ các tài liệu chính thức khác và được giả mạo trên các giấy tờ của MJ-12.
Thông tin về Area 51 vẫn luôn bị hạn chế công bố ra bên ngoài
Tòa nhà Hangar 18 cũng là một trong những bí ẩn được đồn đại nhiều nhất xoay quanh Area 51. Đây là tòa nhà được cho là nơi chứa con tàu vũ trụ mà quân đội đã tìm thấy, và cũng có thể là cả một cá thể người ngoài hành tinh. Vị trí của tòa nhà cũng là một trong những bí ẩn lớn, một số người khẳng định một trong số các nhà chứa máy bay là Hangar 18 vì chỉ có nơi như thế mới đủ sức chứa cả một con tàu vũ trụ. Tuy nhiên vẫn chưa có thông tin nào xác thực về vấn đề này, ông Rick Baker -một chuyên gia về những hiệu ứng đặc biệt- cho biết người ngoài hành tinh tại Area 51 không có gì hơn một con rối để che mắt mọi người.
Không phải tất cả những đồn đại về Area 51 đều xoay quanh người ngoài hành tinh và UFO. Một số xoay quanh những tổ chức bí mật như MJ-12, và sự tồn tại của nó là có thực. Người ngoài hành tinh và UFO chỉ là bức bình phong để đánh lạc hướng dư luận trước những âm mưu của tổ chức này, đó chính là nghiên cứu những loại vũ khí mới nhất để dành được ưu thế khi chiến tranh nổ ra, hoặc cũng có thể to lớn hơn là lập lại trật tự của thế giới.
Còn việc những người dân nhìn thấy UFO tại khu vực Area 51, có thể là do những cuộc thử nghiệm của quân đội tại đây. Không phận trên Area 51 và khu vực xung quanh được sử dụng để thử nghiệm các mẫu máy bay mới, trong đó có nhiều loại máy bay với thiết kế kỳ lạ mà trước đây chưa từng được xuất hiện, do đó có thể khiến những người dân tưởng nhầm là UFO. Các loại UAV không người lái trước khi được sử dụng rộng rãi, với thiết kế lạ, nhỏ và không có buồng lái, thực sự có thể khiến những người dân thường tưởng nhầm là một thiết bị ngoài không gian.
Được đưa ra ánh sáng
Area 51 nằm ngay sát khu vực thử nghiệm hạt nhân của AEC, do đó khu căn cứ đã phải chịu những ảnh hưởng khắc nghiệt. Trước mỗi cuộc thử nghiệm của mình, AEC đều thông báo trước để sơ tán khu vực Area 51 nếu cảm thấy cần thiết. Tuy nhiên vào năm 1957, một cuộc thử nghiệm Hood nhằm xác định thiệt hại nếu một quả bom hạt nhân bị hư hại và phát nổ. Lúc đó, AEC đã cho nổ quả bom hạt nhân 74 kiloton (tương đương 74 nghìn tấn thuốc nổ TNT) mà không hề báo trước với Are 51. Vụ nổ tuy không làm khu căn cứ bị hư hại nhiều, nhưng phóng xạ đã gây ảnh hưởng trong thời gian dài. Cho đến nay, vùng đất xung quanh Area 51 đã hấp thụ khá nhiều phóng xạ từ những cuộc thử nghiệm hạt nhân.
Một mối nguy hiểm khác đối với những người làm việc tại đây là các cuộc thử nghiệm công nghệ mới cũng như việc tiêu hủy các thiết bị nhằm giữ bí mật, tuy nhiên quân đội lại không có các biện pháp bảo hộ an toàn. Thông thường, các thiết bị được tiêu hủy bằng cách đốt trong những hố lớn tự tạo. Do không được trang bị các biện pháp bảo hộ, nên các nhân viên tại đây phải tiếp xúc thường xuyên với hóa chất và khói. Cấp trên của họ cho rằng, vì lý do an ninh nên họ phải hạn chế việc nhập các thiết bị từ bên ngoài vào. Một số nhân viên tại đây đã nhiễm bệnh và chết. Ngoài ra việc ảnh hưởng của phóng xạ còn làm tăng số lượng người mắc bệnh ung thư ở những vùng lân cận. Area 51 đã có một thời gian phải hứng chịu những chỉ trích và đơn kiện của người dân về vấn đề này.
Chính phủ Mỹ đã dùng mọi cách để che đậy sự tồn tại của căn cứ bí mật này, phủ nhận tất cả thông tin về Area 51 từ trước năm 1990. Tuy nhiên một sự việc thú vị đã khiến cả thế giới biết đến sự tồn tại của Area 51, cũng như khiến chính phủ Mỹ phải công nhận. Sự việc bắt nguồn từ cái chết của hai nhân viên tại Area 51, họ bị nhiễm phải khí độc trong quá trình thiêu hủy do không có các thiết bị bảo hộ. Sau đó, vợ của nạn nhân cùng một số nhân viên khác đưa đơn kiện lên chính phủ Mỹ.
Tuy nhiên lúc đó, không ai biết đến sự tồn tại của Area 51 và những nhân viên làm việc tại đó. Để chứng minh điều này, các công nhân đã đưa ra một số tài liệu không phải tuyệt mật về các điều kiện bảo hộ và an toàn tại căn cứ Area 51 để làm bằng chứng. Những tài liệu này đã chứng minh sự tồn tại của khu căn cứ Area 51. Ngay sau đó, chính phủ Mỹ đã thu hồi và duyệt các tài liệu này vào danh sách tuyệt mật, do đó tòa án không cho phép sử dụng làm bằng chứng.
Cho đến năm 1995, Tổng thống Clinton đã ký sắc lệnh môi trường tại khu vực Area 51, do những ảnh hưởng phóng xạ nặng nề tại đây. Đây cũng chính là sự thừa nhận chính thức sự tồn tại của Area 51 từ phía chính phủ, trong sắc lệnh đó Mỹ gọi đây là khu vực hoạt động của Không quân Mỹ tại Nevada. Vụ kiện ở trên sau đó đã bị bác bỏ, với lý do mang tính điều tra làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Hiện nay, Area 51 cho phép EPA kiểm tra các thiết bị và khu vực xung quanh để đảm bảo các yêu cầu về môi trường theo như sắc lệnh năm 1995. Tuy nhiên tất cả các báo cáo của EPA là tuyệt mật và không được công bố, bất chấp theo pháp luật những báo cáo này phải được công bố cho người dân biết.
Hàng loạt sự kiện được hé lộ
Sau khi sự tồn tại của Area 51 được xác nhận, những sự kiện liên quan đến khu căn cứ này cũng dần được hé lộ:
- Bắt đầu từ năm 1950, CIA đã hợp tác với Lockheed trong dự án nghiên cứu loại máy bay trinh sát mới. Toàn bộ dự án là tuyệt mật và có tầm quan trọng rất lớn, do đó họ cần tìm một căn cứ nghiên cứu và thử nghiệm bí mật.
- Năm 1955, Area 51 đã được đại diện của CIA và người đứng đầu Lockheed, ông Johnson lựa chọn làm cơ sở hoạt động, nghiên cứu và thử nghiệm cho dự án bí mật này. Khi chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của U-2 được tiến hành, tổng thống Eisenhower đã ký sắc lệnh cấm xâm phạm trên không phận Groom Lake. Sau này toàn bộ khu vực Groom Lake và Area 51 được trao quyền kiểm soát cho AEC và không quân Mỹ.
- Từ năm 1957-1982, có rất nhiều dự án nghiên cứu cũng như thử nghiệm các loại máy bay mới được tiến hành tại Area 51. Tất cả các dự án này cũng như sự tồn tại của Area 51 vẫn được giữ bí mật.
- Năm 1997, Area 51 bắt đầu được biết đến cùng các dự án bí mật trước đây.
- Cho đến nay không quân Mỹ vẫn tiếp tục những cuộc thử nghiệm các mẫu máy bay mới, một nhà chứa máy bay khổng lồ đang được xây dựng.
Mặc dù vậy, những thông tin về Area 51 vẫn luôn bị hạn chế công bố ra bên ngoài.