Công tác lập pháp của Quốc hội năm 2013: Những thành tựu lớn lao

04/01/2014 09:19
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Với việc thông qua Hiến pháp (sửa đổi) ở kỳ họp thứ 6, QH khóa XIII đã đưa lịch sử lập pháp và lập hiến của đất nước tiến thêm một bước. Không chỉ có vậy, hàng loạt những điểm mới mà Quốc hội khóa XIII làm được đã gây nhiều ấn tượng trong nhân dân.

Đổi mới toàn diện

 

Mỗi năm, Quốc hội họp phiên toàn thể hai kỳ, với thời lượng trên dưới 1 tháng mỗi kỳ. Quốc hội khóa XIII đã chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ về chất, với hàng chục phiên thảo luận được phát thanh, truyền hình trực tiếp đến cử tri cả nước. Đây là một động thái có tính chất lịch sử, mở ra thời kỳ mới… cho hoạt động Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Tại kỳ họp thứ 6 vừa qua, cùng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai (sửa đổi) sau khi được thông qua cũng là một điểm nhấn quan trọng được cử tri mong đợi, nhằm khắc phục những bất cập trong công tác quản lý đất đai hiện hành.

 

Cũng trong năm 2013, tại kỳ họp thứ 5, lần đầu tiên Quốc hội tổ chức lấy phiếu tín nhiệm và cũng đã thông qua Nghị quyết số 44/2013/QH13 ngày 11/6/2013, xác nhận kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Theo đó, Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm 47/49 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Việc lấy phiếu tín nhiệm đã được thực hiện đảm bảo nghiêm túc, đúng mục đích, nguyên tắc, quy trình; quá trình lấy phiếu được công khai để các cơ quan báo chí theo dõi, đưa tin.

 

Công tác lập pháp của Quốc hội năm 2013: Những thành tựu lớn lao

Các đại biểu Quốc hội ấn nút thông qua HIến pháp

 

Kết quả lấy phiếu tín nhiệm đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Dư luận, cử tri cả nước đánh giá cao việc Quốc hội tổ chức lấy phiếu tín nhiệm, cho rằng đây là việc làm cần thiết và cũng là hình thức giám sát quan trọng của Quốc hội. Theo ý kiến của cử tri, việc lấy phiếu tín nhiệm sẽ là cơ hội để những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nhìn vào đó để nỗ lực làm việc. Điều này đã thể hiện rõ tính công khai, minh bạch của một thể chế đang vận động theo hướng tiến bộ, góp phần xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

 

Tại các kỳ họp Quốc hội khóa XIII, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với các thành viên Chính phủ luôn thu hút sự quan tâm, chú ý theo dõi của đông đảo cử tri và nhân dân cả nước. Theo đó, kỳ họp thứ 6 có 203 chất vấn của 89 đại biểu Quốc hội về nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội… Giám sát tối cao tại kỳ họp, cụ thể là chất vấn và trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ luôn là nội dung “nóng” được cử tri theo dõi, vì đây đều là những vấn đề đang từng ngày, từng giờ tác động đến đời sống của nhân dân, ảnh hưởng đến quá trình phát triển đất nước. Thế nên, từ khâu “chọn lựa” Bộ trưởng trả lời chất vấn cũng được Quốc hội đặc biệt quan tâm. 

 

Việc thực hiện các chức năng của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng cũng nâng lên tầm cao mới: Vai trò của Quốc hội trong việc nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật nhằm hạn chế cơ hội tham nhũng ở Việt Nam; vai trò phòng, chống tham nhũng của Quốc hội trong việc phê chuẩn và kiểm soát ngân sách, quyết định các chương trình, dự án quan trọng của quốc gia; hoạt động phòng, chống tham nhũng của Quốc hội thông qua việc bảo đảm sự minh bạch tài sản và thông tin trong hoạt động của bộ máy Nhà nước; thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Đồng thời, việc xây dựng các thiết chế hỗ trợ Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng - thực trạng và giải pháp; nâng cao vai trò phát hiện tham nhũng của ĐB Quốc hội thông qua việc giữ mối quan hệ với cử tri và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc hỗ trợ Quốc hội thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng cũng được đề cập với thời lượng nhất định.

 

Sửa đổi Hiến pháp - bước tiến quan trọng

 

Hiến pháp 2013 được thông qua, đây được coi là kết tinh của ý Đảng - lòng dân. Hiến pháp là kết quả của quá trình làm việc cần mẫn, tâm huyết, tận tụy của các đại biểu Quốc hội, được cử tri trong và ngoài nước, các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị tham gia. Đó là ý chí, nguyện vọng của nhân dân khi hàng chục triệu cử tri và nhân dân trực tiếp tham gia góp ý. Điều mà nhiều người dân góp ý, tâm huyết nhất đã được thể hiện trong bản Hiến pháp, đó là quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đặc biệt coi trọng, đặt trang trọng ngay ở Chương 2 của bản dự thảo Hiến pháp.

 

Tại Hiến pháp (sửa đổi), một lần nữa, Ðiều 4 khẳng định tính tất yếu khách quan trong vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước. Những quy định từ Ðiều 1 đến Ðiều 14 của Hiến pháp đã phản ánh đầy đủ ước nguyện của mọi người dân Việt từ bao đời nay là xây dựng một Nhà nước pháp quyền "của dân, do dân, vì dân" và "tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân". Sự ổn định về chính trị và các thành tựu về kinh tế, xã hội và văn hóa trong những thập kỷ vừa qua là bằng chứng xác nhận sự chuẩn xác của Hiến pháp 1992 trong việc xác định các nguyên tắc và điều hành hoạt động của Nhà nước, cũng như hoạt động của xã hội. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21, chúng ta cần một Hiến pháp mới và từ nay, chúng ta đã có bản Hiến pháp đó, một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử lập hiến.

 

Về việc Quốc hội thông qua Hiến pháp (sửa đổi) năm 2013, Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng đánh giá: “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) lần này đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân; khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng ta, đồng thời thể hiện niềm tin, ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân với Đảng, yêu cầu mọi tổ chức Đảng và từng đảng viên phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình và luôn hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

 

Cùng với việc thông qua Hiến pháp, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã xem xét, thông qua 8 Luật và cho ý kiến về 10 Dự án luật khác. Việc ban hành các đạo luật, nhất là Luật Đất đai (sửa đổi) tại kỳ họp Quốc hội vừa qua có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, giải quyết các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn cuộc sống, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. 

 

Bước đột phá từ Luật Đất đai (sửa đổi) 

 

Luật Đất đai (sửa đổi) vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6. Đây là một bộ luật rất quan trọng, không chỉ góp phần nâng cao vai trò quản lý nhà nước về đất đai, nguồn tài nguyên lớn của đất nước, mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, với việc thông qua Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2003 có ý nghĩa quan trọng để công tác quản lý nhà nước về đất đai đi vào nền nếp.

 

Dự án Luật Đất đai 2003 (sửa đổi) được ban soạn thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 vào cuối năm 2012 và phải đến kỳ họp thứ 6 gần đây, Luật Đất đai (sửa đổi) mới được Quốc hội thông qua. Với tầm quan trọng đặc biệt của Luật Đất đai, đồng thời nhằm phát huy dân chủ và trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, Luật Đất đai (sửa đổi) đã được đưa ra lấy ý kiến toàn dân. Qua đó, đã có gần 7 triệu lượt ý kiến đóng góp cho bản dự thảo đã được người dân tham gia góp ý.

 

Một trong những điểm đáng lưu ý của Luật Đất đai (sửa đổi) lần này là đã gắn với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 liên quan đến sở hữu đất đai, việc thu hồi đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư, thành lập cơ quan định giá đất độc lập, việc thu hồi đất phải hài hoà và tính đến sinh kế của người dân bị thu hồi đất. Luật Đất đai (sửa đổi) đã nâng cao được vai trò của người sử dụng đất, nhất là công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, cũng như những chính sách tái định cư và hỗ trợ người dân. Trong đó tính dân chủ, công khai và minh bạch trong quá trình thu hồi đất đã được luật quy định rõ hơn. Đây là những nội dung quan trọng góp phần đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân trong quá trình thu hồi đất và triển khai các dự án.

 

Một trong những điểm mới trong dự thảo Luật Đất đai là nguyên tắc định giá đất. Nguyên tắc này được sửa đổi như sau: “Giá đất do Nhà nước quyết định bảo đảm nguyên tắc phù hợp với giá thị trường". Do vậy, các văn bản hướng dẫn thực hiện cần đưa ra một cơ chế xác định giá thị trường như mời công ty thẩm định giá hoặc dựa trên giá chuyển nhượng cùng loại đất, cùng vị trí một khoảng thời gian xác định. Ngoài ra, cần quy định cơ chế tự thỏa thuận giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất cũng như thủ tục để nhà đầu tư và người sử dụng đất có thể thực hiện thỏa thuận. Cơ chế này có thể giảm bớt thủ tục hành chính cũng như giúp đơn giản hóa thủ tục đền bù giải phóng mặt bằng trong những trường hợp nhà đầu tư và người sử dụng đất có thể đạt được thỏa thuận riêng.

 

Việc xác định giá đất đền bù và giải phóng mặt bằng hợp lý, sẽ góp phần đảm bảo được lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong quá trình triển khai các dự án, đồng thời ổn định được xã hội và phát huy được nguồn lực của đất đai đối với quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Do đó, việc xác định đúng giá trị của đất đai trong Luật Đất đai (sửa đổi) có ý nghĩa quan trọng, nhằm đảm bảo lợi ích và hài hòa mối quan hệ giữa các bên trong quá trình thu hồi đất để triển khai các dự án.

 

Tống Toàn

 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Công tác lập pháp của Quốc hội năm 2013: Những thành tựu lớn lao