Thu thập chứng cứ là vấn đề quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Tuy nhiên, việc quy định Tòa án cũng là chủ thể trong quá trình xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ vẫn còn có cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình chứng minh tội phạm, do vậy cần có giải pháp tháo gỡ.
Chưa có chế tài xử lý
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án tại Điều 252, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ bằng các hoạt động: Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản…
Đây là những quy định mới tiến bộ bảo đảm quyền độc lập của Tòa án nói chung và Hội đồng xét xử nói riêng, Tòa án hoàn toàn có thẩm quyền xác minh, thu thập hoặc bổ sung chứng cứ nếu thấy cần thiết không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện có những khó khăn như: Chế tài xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.
Điều 382, 383 Bộ luật Hình sự 2015 cũng mới chỉ dừng lại ở việc xử lý đối với hành vi từ chối cung cấp tài liệu, cung cấp tài liệu sai sự thật của người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa; còn các cá nhân, tổ chức, cơ quan khác thì chưa có chế tài xử lý trong trường hợp không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật.
Ví dụ trong vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, bị cáo đã gây ra tai nạn cho bị hại, làm hư hỏng xe ô tô và gây tỷ lệ tổn thương cơ thể cho bị hại. Tuy nhiên bị hại không cung cấp tài liệu, giấy tờ liên quan đến thiệt hại mặc dù đã được các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu cung cấp. Vấn đề này gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng mà không có chế tài ràng buộc trách nhiệm của người bị thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nên không có cơ sở, chứng cứ để giải quyết vụ án.
Các tổ chức, cơ quan, cá nhân không hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc cung cấp tài liệu liên quan đến vụ vụ gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng trong việc thu thập, xác minh chứng cứ.
Thực tế cho thấy, quy định việc thẩm quyền thu thập chứng cứ đang làm khó cho Tòa án. Tòa án là cơ quan xét xử chức năng chính của Tòa án là xét xử, giải quyết các loại vụ việc. Thẩm phán người tiến hành tố tụng là người được đào tạo nghiệp vụ chính là xét xử, và không có nghiệp vụ điều tra, vậy việc đặt quy định Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ cũng rất khó khả thi.
Tại Điều 15 BLTTHS hiện hành quy định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Muốn chứng minh tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập đầy đủ chứng cứ phạm tội của chể thể bị buộc tội.
Không nên quy định Thẩm phán có trách nhiệm thu thập chứng cứ
Theo Thẩm phán Nguyễn Tất Trình, TAQS khu vực 1 Quân khu 5, chính quy định của BLTTHS hiện hành như vậy đã gây khó khăn cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nói riêng và ngành Tòa án nói chung. Bởi lẽ, ngoài chức năng xét xử thì Tòa án, Thẩm phán còn có nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng minh vụ án, như vậy có thể việc giải quyết vụ án của Thẩm phán sẽ không khách quan do việc Thẩm phán phải tự mình đánh giá, kiểm tra chứng cứ đã thu thập được, chứng cứ đã có sẵn trong hồ sơ do Cơ quan điều tra thu thập, việc lập luận chứng minh của Thẩm phán dễ bị lệ thuộc vào Cáo trạng và thiên về đánh giá chứng cứ buộc tội mà xem nhẹ chứng cứ gỡ tội phát sinh tại phiên tòa. Quy định như vậy, dẫn đến tình trạng Thẩm phán làm thay công việc của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, ảnh hưởng đến việc tranh tụng tại phiên tòa do việc Thẩm phán vừa là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh lại là người điều khiển tranh tụng giữa bên buộc tội và gỡ tội.
Bên cạnh đó, việc không phân rõ quyền hạn, nhiệm vụ giữa các CQTHTT dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Trong mọi trường hợp Tòa án tự mình thu thập chứng cứ hay là phải theo khoản 6 Điều 252 BLTTHS là phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu Viện Kiếm sát không làm thì Tòa án mới được tự mình thu thập chứng cứ.
Khoản 6 Điều 252 BLTTHS 2015 hiện nay có nhiều quan điểm áp dụng khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Việc Tòa án tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ là độc lập không phụ thuộc vào việc Tòa án đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hay chưa. Xuất phát từ Điều 88 quy định các chủ thể tiến hành việc thu thập chứng cứ, theo đó các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ, việc thu thập chứng cứ là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án.
Quan điểm thứ hai: Tòa án chỉ được tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ khi Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được. Như vậy điều kiện tiên quyết trước khi tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ là Tòa án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung và Viện Kiểm sát không bổ sung được chứng cứ mà Tòa án yêu cầu thì Tòa án mới được tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ. Quan điểm này là phù hợp với thực tế hiện nay.
Liên quan đến quy định về thẩm quyền “Tòa án xác minh, thu thập và bổ sung chứng cứ” theo quy định tại Điều 252 BLTTHS năm 2015, các ý kiến cho rằng, để đảm bảo cho hoạt động điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, pháp luật cần có chế tài xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện cung cấp tài liệu theo yêu cầu của Tòa án;
Việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ trong vụ án hình sự là nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát nên trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung để đi giám định, định giá tài sản lại thì Viện kiểm sát phải có trách nhiệm thực hiện nội dung bổ sung chứng cứ mà Tòa án yêu cầu.
Tuy nhiên, Viện Kiểm sát không thực hiện trưng cầu giám định lại vì cho rằng Tòa án cũng có chức năng trên nên Tòa án phải tự đi giám định.Vậy cần có cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với Kiểm sát viên, Viện kiểm sát khi không thực hiện việc yêu cầu của Tòa án dẫn đến việc sai sót trong quá trình giải quyết vụ án.
Điều 252 BLTTHS 2015 phải được sửa đổi lại phù hợp với nội hàm điều luật là: Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các hoạt động: Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản;
Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án, Thẩm phán Nguyễn Tất Trình đề xuất.