Quy định rõ về chứng cứ, nghĩa vụ chứng minh là một trong những nội dung quan trọng của BLTTDS 2015 nhằm làm cơ sở cho các đương sự xác định những nghĩa vụ của mình khi đưa ra yêu cầu, thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Nghĩa vụ chứng minh
Nếu đương sự không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và Tòa án không thể thu thập chứng cứ được thì có khả năng là bị Tòa án tuyên bác yêu cầu. Đồng thời, trong quá trình giải quyết phải bảo đảm cho người yếu thế không thể cung cấp được tài liệu chứng cứ vẫn có điều kiện thực hiện việc tranh tụng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình nên có một số trường hợp cụ thể, nghĩa vụ chứng minh phải thuộc về của người bị yêu cầu (bị đơn). Vì vậy, BLTTDS 2015 đã quy định:
Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người bị yêu cầu:
Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động. Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
Xác định chứng cứ
Trên cơ sở kế thừa và phát triển, BLTTDS 2015 đã sửa đổi bổ sung quy định các tài liệu được coi là chứng cứ của vụ việc dân sự: Tài liệu đọc được nội dung là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực; Tài liệu nghe được, nhìn được được; Thông điệp dữ liệu điện tử; Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc; Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ; Văn bản công chứng, chứng; Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
Giao nộp tài liệu, chứng cứ là quyền và nghĩa vụ của đương sự; việc giao nộp chứng cứ là một trong những nội dung quan trọng của tranh tụng nên đương sự phải giao nộp đầy đủ và công khai các tài liệu chứng cứ, trừ trường hợp pháp luật quy định được giữ bí mật. Xuất phát từ quan điểm đó BLTTDS 2015 quy định: Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự phải giao nộp tài liệu chứng cứ liên quan; Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Đương sự phải giao nộp, nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập để giải quyết vụ việc dân sự.
Một phiên tòa dân sự
Về thủ tục giao nộp chứng cứ: Đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải lập biên bản. Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ: Đối với Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó.
Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.
Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác; trừ tài liệu chứng cứ được giữ bí mật theo luật định hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác.
Xác minh, thu thập chứng cứ
Để phù hợp với mô hình tố tụng “xét hỏi kết hợp tranh tụng”, BLTTDS 2015 đã quy định rõ ràng quyền thu thập chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chuẩn bị nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người tiến hành tố tụng đối với việc xác minh, thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm có đủ căn cứ khi giải quyết vụ việc dân sự.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ (không dùng từ “đương sự” để cho phép họ có quyền thu thập tài liệu chứng cứ cho việc chuẩn bị hồ sơ gửi kèm theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và cả trong quá trình giải quyết vụ việc).
Khi tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án. Việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng không phải ra quyết định.
Việc quy định như trên nhằm thể hiện vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ trong trường hợp rất cần thiết cho việc giải quyết vụ án, đồng thời cũng khẳng định rõ không phải mọi thu thập chứng cứ đều do Tòa án chủ động thực hiện, như: “Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng”.
Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; Yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;
Khi Thẩm tra viên tiến hành yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án.
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
Để phù hợp Luật Giám định tư pháp, ngoài việc đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định như BLTTDS 2004, BLTTDS 2015 còn quy định khi đương sự đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự thì đương sự có thể yêu cầu giám định.
Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC theo quy định của Luật Giám định tư pháp.
Về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, trong thực tế có rất nhiều vụ án, đương sự không thỏa thuận được giá đối với tài sản đang tranh chấp nhưng không có đương sự nào yêu cầu Tòa án ra quyết định định giá làm cho Tòa án lúng túng trong việc giải quyết vụ án. Vì vậy, để khắc phục vướng mắc đó, BLTTDS 2015 đã bổ sung trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản thì Tòa án ra quyết định định giá tài sản.