Bộ luật Dân sự (sửa đổi): Xác định lại một số quyền cơ bản của Tòa án

Quốc Huy| 27/08/2014 17:41
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Trong tổng số 672 điều, Dự thảo BLDS (sửa đổi) đã giữ nguyên 263 điều, sửa đổi 297 điều, bổ sung 126 điều, bãi bỏ 149 điều so với Bộ luật hiện hành.

Mục tiêu của việc sửa đổi nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, tổ chức trong giao dịch dân sự, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến pháp đã được sửa đổi...

Đưa ra thẩm tra tại Ủy ban Pháp luật của Quốc hội ngày 21/8 vừa qua, các chuyên gia đã bày tỏ nhiều tâm huyết đối Bộ luật này bởi có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt kinh tế - xã hội mà còn cả về mặt xây dựng pháp luật hiện nay. Đa số các ý kiến tán thành với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung của BLDS. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số vấn đề, quy định mới còn có ý kiến khác nhau.

Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự

So với quy định của BLDS 2005, phần chung tại Dự thảo sửa đổi đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa quan điểm xây dựng BLDS thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật tư, có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi. Thay vì quy định phạm vi điều chỉnh theo hướng liệt kê quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động... như trong Bộ luật hiện hành, Dự thảo Bộ luật lại lấy tính chất bình đẳng của các chủ thể dân sự làm tiêu chí xác định phạm vi điều chỉnh BLDS; cụ thể hóa thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Phần riêng tại khoản 3, Điều 5 Dự thảo quy định: “TAND không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng...”.

Bộ luật Dân sự (sửa đổi): Xác định lại một số quyền cơ bản của Tòa án

Một phiên tòa dân sự (Ảnh minh họa)

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, nội dung này có nhiều ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng, BLDS cần bổ sung quy định: Khi người dân có yêu cầu về giải quyết vụ, việc dân sự thì TAND không được từ chối vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Trong trường hợp chưa có điều luật thì Tòa án cần áp dụng quy định về áp dụng tập quán, áp dụng tương tự quy định của pháp luật, các nguyên tắc cơ bản được quy định trong BLDS và lẽ công bằng để xem xét, giải quyết vụ, việc dân sự của người dân.  Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cần cân nhắc quy định này vì trong điều kiện kinh tế - xã hội và pháp luật hiện nay của Nhà nước ta thì quy định này là khó có tính khả thi.

Tuy nhiên, Dự thảo nghiêng về phương án 1 vì cho rằng, quy định như vậy là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án đã được quy định tại khoản 3 Điều 102 Hiến pháp, theo đó: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Bên cạnh đó, theo nội dung, tinh thần của Hiến pháp thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cơ chế pháp lý đầy đủ để các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, việc bổ sung quy định nêu trên là cần thiết nhằm để góp phần thực hiện trách nhiệm này của Nhà nước. Mặt khác, trong thời gian qua, do thiếu quy định này của luật nên khi có yêu cầu của người dân thì Tòa án còn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ hiến định của mình.

Có nên bỏ thời hiệu khởi kiện?

Về thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự được quy định trong Dự thảo BLDS, có ý kiến cho rằng, BLDS chỉ quy định về thời hiệu hưởng quyền và thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự mà không nên quy định thời hiệu khởi kiện. Quy định như vậy là phù hợp với bản chất pháp lý của thời hiệu, tạo công cụ pháp lý tốt hơn để các chủ thể căn cứ vào đó để bảo vệ các quyền dân sự của mình. Việc quy định thời hiệu khởi kiện như hiện hành tuy có tác dụng tạo thuận lợi cho Tòa án trong việc chứng minh, giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời tạo căn cứ để Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự mà không phải đưa ra phán quyết cụ thể để xác định quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, nhưng lại có hạn chế là chưa giúp giải quyết được một cách triệt để các tranh chấp phát sinh. Khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi, chủ thể có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước cho thấy, BLDS của các nước này cũng chỉ quy định thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ mà không quy định thời hiệu khởi kiện.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có nhiều ý kiến cho rằng, nên tiếp tục kế thừa quy định về thời hiệu khởi kiện như BLDS hiện hành để nâng cao trách nhiệm của các bên trong việc yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình; không tạo áp lực cho Tòa án trong việc giải quyết những vụ việc đã xảy ra trong thời gian dài, khó xác định về chứng cứ cũng như nội dung vụ việc; thời hiệu khởi kiện đã được quy định và áp dụng ổn định trong pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng dân sự ở nước ta nên việc bỏ quy định về loại thời hiệu này có thể gây ra những xáo trộn nhất định trong thi hành pháp luật.

Liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản là bất động sản, nhiều đại biểu cũng nêu ý kiến về thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với loại tài sản cần đăng ký. Theo đó, thời điểm này cần được tính từ khi giao dịch được thực hiện xong. Còn việc đăng ký với Nhà nước để thuận tiện cho yêu cầu quản lý lại là một quan hệ khác. Đây là cơ sở quan trọng để xử lý nhiều vụ bội ước khá phổ biến trong giao dịch bất động sản. 

ĐBQH Phạm Trí Thức, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật cũng đề cập đến việc Dự thảo lần này bỏ chương về chuyển quyền sử dụng đất với lý lẽ là để quy định trong luật chuyên ngành. Theo ông Thức, như vậy sẽ không ổn bởi Luật Đất đai 2013 cũng không quy định cụ thể về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, như vậy sẽ quy định ở luật nào, trong khi đây là lĩnh vực thường xảy ra rất nhiều tranh chấp.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Bộ luật Dân sự (sửa đổi): Xác định lại một số quyền cơ bản của Tòa án