Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 bổ sung quy định về người tham gia tố tụng, về chứng cứ và chứng minh, về biện pháp khẩn cấp tạm thời… để phù hợp với BLDS năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan.
Bổ sung quy định về người giám định
BLTTDS năm 2015 bổ sung đương sự là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi để phù hợp với BLDS năm 2015. Bổ sung quy định đương sự có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu chứng cứ mà đương sự khác đã có và tài liệu, chứng cứ mà Tòa án không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109. Bỏ quy định về điều kiện “được Tòa án chấp nhận” đối với trường hợp người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; thay vào đó, chỉ thực hiện thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tạo điều kiện thuận lợi cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng trong các vụ việc dân sự (Điều 75);
BLTTDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung quy định về người giám định, quyền, nghĩa vụ của người giám định để phù hợp với Luật Giám định tư pháp; Bổ sung quy định pháp nhân là người đại diện trong tố tụng dân sự để phù hợp với BLDS năm 2015 (khoản 1 Điều 85).
BLTTDS năm 2015 sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ và chứng minh nhằm làm rõ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập chứng cứ, hậu quả của việc đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được. Tòa án chỉ thu thập chứng cứ khi đương sự không thể thu thập được hoặc khi xét thấy cần thiết. Quy định này nhằm phù hợp với mô hình tố tụng dân sự là xét hỏi kết hợp với tranh tụng.
BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định về thủ tục trao đổi, chuyển giao chứng cứ giữa các đương sự để mọi chứng cứ đều công khai nhằm bảo đảm thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Sửa đổi, bổ sung trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong việc thực hiện những biện pháp thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm việc thu thập chứng cứ được nhanh chóng, thuận lợi hơn, khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn; Sửa đổi, bổ sung quy định về trưng cầu giám định, định giá tài sản, thẩm định giá tài sản để phù hợp với Luật Giám định tư pháp, Luật Giá; đồng thời, khắc phục khó khăn, vướng mắc hiện nay về thẩm định giá, định giá tài sản.
Một phiên tòa dân sự
Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy định cụ thể các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ; BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định việc thu thập chứng cứ ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, theo đó: trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến hành thu thập chứng cứ bằng các biện pháp: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú. Khi Thẩm tra viên tiến hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp “Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”, Tòa án phải ra quyết định, nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án.
Bổ sung quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời mới là “Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ”; bổ sung quy định trường hợp sau khi đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án quyết định trả lại đơn khởi kiện hoặc Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án khi đương sự rút đơn khởi kiện hoặc Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm ra quyết định về việc đình chỉ giải quyết vụ án thì phải đồng thời quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phân công một Thẩm phán giải quyết. Đồng thời, bổ sung quy định căn cứ hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn; bổ sung quy định rõ thủ tục, thẩm quyền giải quyết yêu cầu áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa để tránh những sai sót, vướng mắc trong thực tiễn.
BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định: Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp: Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu; Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng. Việc bồi thường thiệt hại trong các trường hợp nêu trên được thực hiện theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
BLTTDS năm 2015 quy định về thời hạn tố tụng, thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu theo hướng dẫn chiếu tới các quy định tương ứng của BLDS 2015; khẳng định nguyên tắc “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”. Theo quy định này, khi thụ lý giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có trách nhiệm phải giải thích cho đương sự biết quyền và nghĩa vụ của họ, bao gồm cả quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu.