Thiệu Trung (Thiệu Hóa, Thanh Hóa) không chỉ nổi tiếng là quê nhà sử học lỗi lạc Lê Văn Hưu mà còn vang danh với làng nghề đúc đồng cực kỳ tinh xảo...
Qua bao thăng trầm của thời gian, nghề đúc đồng truyền thống ở xã Thiệu Trung vẫn được duy trì và phát triển lâu bền. Trong những nghệ nhân đã khắc tên mình vào nghề truyền thống lâu đời, phải kể đến nghệ nhân Lê Văn Bảy. Ông là một nghệ nhân có kinh nghiệm nhiều năm trong nghề và là người thổi lửa nghề đúc trống đồng truyền thống…
Nghệ nhân hoàn thiện trống đồng
Lê Văn Hưu (1230-1322) người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc xã Triệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Trong thời gian làm việc ở Quốc sử Viện, vào năm 1272, Lê Văn Hưu đã hoàn thành việc biên soạn Đại Việt sử ký - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam, ghi lại những sự việc quan trọng chủ yếu trong một thời gian lịch sử dài gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ đế (tức Triệu Đà 207 - 136 trước Công nguyên) cho tới Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225), tất cả gồm 30 quyển, được Vua Trần Thánh Tông xuống chiếu ban khen. Khi về thăm đền thờ nhà sử học này, các du khách khắp nơi không thể không ghé qua làng nghề đúc đồng vang tiếng bốn phương.
Cách thành phố Thanh Hóa khoảng 15km, làng đúc đồng truyền thống thuộc xã Thiệu Trung (Thiệu Hóa, Thanh Hóa), với nhiều sản phẩm nổi tiếng như: ảnh Bác Hồ, trống đồng, sản phẩm mỹ nghệ kim loại... Về xã Thiệu Trung, ai cũng biết nghệ nhân Bảy, ông không chỉ là người “khai sáng” nghề đúc đồng truyền thống, mà còn truyền lửa cho nhiều thế hệ trẻ trong làng phát triển nghề vươn xa.
Nhìn lại chặng đường hơn 40 năm theo nghề đúc đồng, nghệ nhân Lê Văn Bảy kể cho tôi nghe những thăng trầm về cuộc đời ông. Với những năm tháng khó khăn, gạo thiếu, sản phẩm làm ra ít người tiêu dùng, lúc đó ông như muốn bỏ cuộc để đi theo con đường mới.
Cũng chỉ vì quá đam mê với nghề và không muốn nghề đúc đồng của ông cha để lại bị thất truyền, Lê Văn Bảy đã quyết tâm vượt qua bao khó khăn để giờ đây những thành quả mà ông có được đáng để mọi người khen ngợi. Có nghề trong tay, ông Bảy đã mạnh dạn thành lập Công ty TNHH đúc đồng truyền thống Bảy Tuyên với các sản phẩm mỹ nghệ kim loại đồng. Ông tạo việc làm ổn định cho khoảng 20 lao động, thu nhập hàng tháng từ 6-8 triệu đồng/người. Các sản phẩm của công ty ông đã có thương hiệu cũng như uy tín, được khách hàng đến tận nơi đặt mua cho gia đình, làm quà biếu, được trưng bày ở những nơi trang trọng nhất trong nhà.
Nghệ nhân Lê Văn Bảy trò chuyện với PV về nghề đúc đồng
Dẫn chúng tôi đi thăm các sản phẩm, nghệ nhân Lê Văn Bảy chia sẻ, ông vinh dự được Chủ tịch nước tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, được các Bộ, ngành trung ương và tỉnh Thanh Hóa tặng bằng khen về những đóng góp của ông trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, ngày 26/9/2013, nghệ nhân Lê Văn Bảy cùng các thợ thủ công làng nghề đúc đồng đã hoàn thành việc đúc chiếc trống đồng, được nhận định lớn nhất thế giới, đưa vào kỷ lục, hoàn toàn bằng phương pháp thủ công truyền thống.
Theo những bậc cao niên trong làng, nghề truyền thống đúc đồng Thiệu Trung đã có từ xa xưa, nhưng để kết hợp cổ kim, “khai sáng” phát triển nghề như nghệ nhân Lê Văn Bảy thì không nhiều. Để có sản phẩm đẹp, phần lớn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ và cái hồn của những người thợ. Thông thường muốn đúc thành một sản phẩm thì người thợ phải tạo mẫu như hình ảnh của sản phẩm, dùng đất sét đắp mẫu theo quy định, chỉnh sửa đường nét, ngôn ngữ điêu khắc của thành phẩm trên từng thành phẩm. Khi đạt được yêu cầu, làm khuôn thạch cao âm bản chỉnh sửa đổ ra khuôn thạch cao.
Bản chỉnh sửa đường nét như phác thảo đã được duyệt. Tiếp theo tạo khuôn dùng đất, chấu, giấy dó để làm khuôn âm bản (khuôn mở hay còn gọi là khuôn 2 nửa). Dùng đất bùn củ, chấu, bột chịu nhiệt làm cốt bên trong (gọi là làm thao). Nung chín khuôn ở nhiệt độ 700 độ C, sau đó để nguội căn chỉnh độ dày mỏng của phần đồng, đạt theo yêu cầu kỹ thuật. Chỉnh sửa khuôn, lau nhẵn, quét sơn chịu nhiệt nung lại một lượt nữa ở nhiệt độ 500 độ C, ghép khuôn thành một khối. Đồng thời, nấu đồng ở nhiệt độ 1200 độ C, khi đồng chảy hết pha tỷ lệ thiếc, chì, kẽm theo yêu cầu, chỉnh nhiệt độ là 1250 độ C, nước đồng lỏng đạt theo yêu cầu lúc đó đưa ra và rót vào khuôn. Tuỳ theo từng thành phẩm mà các nghệ nhân pha trộn khác nhau.
Trước khi đúc đồng và các hợp kim nóng chảy vào khuôn phải nung khuôn nóng đều, đủ độ nhiệt cho đồng chảy đều trong khuôn. Đây là khâu khó nhất phải nhờ kinh nghiệm của đôi mắt và khả năng phán đoán của nghệ nhân kinh nghiệm đảm trách. Cuối cùng công đoạn hoàn thiện sản phẩm, sau khi khuôn nguội, dỡ khuôn lấy sản phẩm ra mài, giũa, đục theo con mắt của nghệ nhân phải đồng sắc - đồng khí mới đạt yêu cầu kỹ thuật, nghệ thuật.
Đa dạng các sản phẩm từ làng nghề đúc đồng
Theo nghệ nhân Lê Văn Bảy, nghề đúc đồng ở Thiệu Trung cũng có những khác biệt so với một số nơi khác, người thợ ở đây có tay nghề, kinh nghiệm, như pha trộn các hỗn hợp kim loại với nhau, mài, đục, tách, giũa… đã tạo ra sản phẩm đặc trưng. Cái khó nhất hiện nay đối với nghề đúc đồng Thiệu Trung là nguồn lao động, do lớp trẻ một phần không đam mê với nghề, thu nhập không cao cũng như khó nhọc hơn so với nhiều nghề khác nên đào tạo, tuyển chọn ngày càng khó khăn.
Cùng với sự năng động sáng tạo của người dân Trà Đông, những năm qua để khuyến khích phát triển làng nghề, huyện Thiệu Hóa đã chỉ đạo xã Thiệu Trung quy hoạch gần 6 ha làng nghề tập trung, đồng thời, có cơ chế khuyến khích các hộ ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới mẫu mã sản phẩm theo nhu cầu người tiêu dùng. Bên cạnh đó, xã còn đứng ra giới thiệu quảng bá sản phẩm làng nghề...
Hiện nay, trước sự cạnh tranh của các sản phẩm đúc đồng từ các làng nghề truyền thống của cả nước, muốn tồn tại được những người thợ làng Trà Đông xác định phải làm ra những sản phẩm đáp ứng những yêu cầu về chất lượng, giá cả và thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng. Vì vậy, làng nghề không ngừng nghiên cứu đổi mới, đa dạng hóa kiểu dáng, mẫu mã, chủng loại. Sản phẩm không chỉ mang phong cách truyền thống mà còn thích ứng với nhu cầu thẩm mỹ hiện đại. Các cơ sở đúc đồng cũng liên kết, hỗ trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để nghề đúc đồng Trà Đông mãi vang danh trong cả nước.