Sáng 16/3, đại diện VKS đã tiến hành luận tội và đề nghị mức án đối với "siêu lừa" Nguyễn Thị Hà Thành và các bị cáo trong vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Cho vay lãi nặng và Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến ngân hàng".
VKS xác định Nguyễn Thị Hà Thành chủ mưu, cầm đầu
Theo đó, đại diện VKS đã đề nghị HĐXX TAND TP Hà Nội tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Hà Thành mức án tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Trong số 26 bị cáo, có 17 người là cựu cán bộ, nhân viên của Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Dân (NCB), Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á (VietABank) và Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Chúng (PVcomBank).
VKS đề nghị tuyên các bị cáo Nguyễn Thị Thu Hương - Trưởng bộ phận khách hàng Phòng giao dịch Đông Đô và Đặng Thị Quỳnh Hương - Trưởng phòng khách hàng cá nhân Phòng giao dịch Đông Đô của VietAbank cùng mức án 16-18 năm tù.
Bị cáo Quản Trọng Đức - Giám đốc chi nhánh Hà Nội, Trưởng phòng giao dịch Đông Đô của VietABank bị đề nghị 15-17 năm tù, Nguyễn Thanh Tùng 15-16 năm tù.
Nguyễn Mai Phương mức án 13-15 năm tù, Nguyễn Thanh Bình 7-8 năm tù, Trịnh Trung Kiên 7-8 năm tù, Đỗ Minh Đức 9-10 năm tù, Bùi Văn Tuấn 9-10 năm tù.
Nhóm bị cáo bị đề nghị mức án 30 tháng đến 36 tháng tù treo, gồm: Đặng Thị Thu Hòa, Phạm Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Hồng Nhung, Trịnh Phương Ngân.
Những bị cáo còn lại bị đề nghị các mức án từ 12 tháng tù treo đến 8 năm tù, theo các tội danh truy tố.
Ngoài đề nghị mức án đối với các bị cáo, đại diện VSK cũng đề nghị tòa buộc Nguyễn Thị Hà Thành phải bồi thường cho VietABank 248,9 tỉ đồng; bồi thường cho PVcomBank 49,4 tỉ đồng; bồi thường cho NCB 47,5 tỉ đồng và cho những cá nhân gửi tiền đồng sở hữu mà Thành đã chiếm đoạt.
Đại diện VKS cũng đề nghị VietABank trả lại cho ông Đặng Nghĩa Toàn 20 tỉ đồng, đề nghị NCB trả lại cho ông Toàn 50 tỉ đồng, PVcomBank trả cho ông Toàn 52 tỉ đồng.
Trong vụ án, theo đại diện VKS, hành vi của Hà Thành và nhiều cựu cán bộ các ngân hàng có mức sai phạm đặc biệt nghiêm trọng. Họ phạm tội trong thời gian dài, chiếm đoạt số tiền đặc biệt lớn của các tổ chức tín dụng và những người gửi tiền.
VKS xác định Nguyễn Thị Hà Thành là chủ mưu, cầm đầu, dùng nhiều thủ đoạn và nhiều lần thực hiện các hành vi gian dối để ngân hàng tin tưởng, cho vay tiền.
Theo hồ sơ vụ án, giữa năm 2016, do làm ăn thua lỗ, nợ 80 tỉ đồng, Thành vay lãi suất cao, trả nợ đúng hạn và trở thành khách VIP của nhiều ngân hàng. Từ đó, bị cáo dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của ngân hàng.
Tại VietABank, Thành móc nối với bị cáo Nguyễn Thị Thu Hương (Trưởng bộ phận quan hệ khách hàng doanh nghiệp, Phòng giao dịch Đông Đô) và Quản Trọng Đức (Trưởng phòng giao dịch Đông Đô).
Thành thống nhất với Hương và Đức sẽ cùng người đồng sở hữu gửi tiết kiệm số lượng tiền lớn vào VietAbank. Nhưng ngay sau khi gửi tiền, Thành sẽ cầm cố chính sổ tiết kiệm này để vay lại tiền của ngân hàng.
Khi Thành đề nghị gửi tiền, Thu Hương chỉ đạo giao dịch viên in, ký trước các hồ sơ để thủ tục được nhanh gọn hoặc ký khống chứng từ nộp tiền khi mà Thành còn chưa nộp tiền.
Cùng với đó, Đức phổ biến với các nhân viên VietABank rằng Thành “là khách hàng VIP” nên phải hỗ trợ tối đa. Thu Hương trấn an người đồng sở hữu sổ tiết kiệm rằng “tiền gửi đã được phong toả, không có mặt cả hai người đồng sở hữu sẽ không thể rút”.
Thu Hương và Thành cũng giấu khách hàng về việc phát hành sổ tiết kiệm cho khoản tiền gửi này.
Tại phiên tòa, Thu Hương thừa nhận hành vi trên được bị cáo thực hiện nhiều lần. Song Thu Hương cho rằng mục tiêu duy nhất của họ là làm khách hàng hài lòng, chăm sóc khách hàng hết mức có thể, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu cho chi nhánh.
Theo lời khai của bị cáo Hương, Hà Thành là khách VIP do bị cáo chăm sóc, bị cáo có nhiệm vụ trợ giúp. Bản chất việc Thành vay tiền khách hàng khác chỉ diễn ra trong ngày, thậm chí vài giờ.
Thiếu trách nhiệm của nhân viên ngân hàng
Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến xét xử, VKS có đủ căn cứ xác định Nguyễn Thị Hà Thành làm ăn thua lỗ, ngoài ra, Hà Thành muốn có vốn đầu tư kinh doanh nên vay những người có tiền với lãi suất cao, hoặc đề nghị đối phương gửi tiền tiết kiệm đồng sở hữu vào các ngân hàng. Sau đó, bị cáo đề nghị đồng sở hữu đưa sổ tiết kiệm cho mình quản lý.
Tại VietABank, Hà Thành trực tiếp bàn với Nguyễn Thị Thu Hương, được sự giúp sức của Quản Trọng Đức và một số cựu cán bộ nhà băng, giả mạo chữ ký của các đồng sở hữu trên giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng, hoặc hợp đồng thế chấp số dư tiền gửi... Qua đó, bị cáo chiếm đoạt của VAB gần 274 tỉ đồng và 63 tỉ đồng của các cá nhân.
Ở ngân hàng NCB, Thành vay của ông Đặng Nghĩa Toàn (khách hàng gửi tiền) hàng chục tỉ đồng bằng hình thức yêu cầu ông Toàn gửi tiền tiết kiệm rồi đưa sổ cho mình giữ. Sau đó, Thành thông qua Thu Hương, làm việc với Nguyễn Hồng Trung (chuyên viên ngân hàng NCB) và Bùi Văn Tuấn (chuyên viên PVcomBank) để làm thủ tục vay tiền.
Thành cấu kết với đồng phạm, lợi dụng sự thiếu trách nhiệm của nhân viên nhà băng, ký giả chữ ký của vợ chồng ông Toàn để cầm cố sổ tiết kiệm vay 47,5 tỉ đồng của NCB.
Tại PVcomBank, Nguyễn Thị Hà Thành vay tiền bằng hình thức yêu cầu vợ chồng ông Toàn gửi tiết kiệm 52 tỉ đồng. Thành và đồng phạm Nguyễn Thanh Tùng giả chữ ký, lăn giả dấu vân tay của vợ chồng ông Toàn trong hợp đồng cầm cố tiền gửi. Cuối cùng, họ lợi dụng sự thiếu trách nhiệm của một số cựu nhân viên ngân hàng, chiếm đoạt của ngân hàng này 49,4 tỉ đồng.