Ngược dòng sông Mã, chúng tôi về với Mường Lát, một huyện biên giới nằm phía Tây Thanh Hóa. Ở vùng đất biên viễn khuất nẻo này, mỗi chặng đường biên, mỗi cột mốc đều lưu dấu những câu chuyện về các tấm gương sáng trong phong trào bảo vệ biên giới.
Nơi hiểm địa sáng tình đất nước
Với đường biên giới giáp nước CHDCND Lào dài gần 200 cây số, Thanh Hóa là một trong những tỉnh có đường biên dài nhất Việt Nam. Từ lâu, miền biên ải xứ Thanh là nơi quần tụ sinh sống của cộng đồng các dân tộc như: Mường, Thái, Thổ, Dao, H'Mông, Khơ-mú. Trên vùng đất này, sau nhiều năm nỗ lực, Chính phủ Việt Nam và nước bạn Lào đã xây dựng được hàng trăm cột mốc biên giới, đánh dấu chủ quyền của hai quốc gia.
Cùng với các lực lượng đứng chân trên địa bàn, trong suốt thời gian qua, nhân dân miền Tây Thanh Hóa đã nguyện đem hết sức mình, tích cực bảo vệ những cột mốc thiêng liêng. Và, cũng chính từ “nơi hiểm địa sáng tình đất nước” này lại là nơi khởi nguồn cho phong trào toàn dân tham gia bảo vệ đường biên cột mốc từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước và bền bỉ trường tồn đến hôm nay.
Trong số 88 vị trí cột mốc quốc giới đã được tôn tạo mới, có 56 già làng, trưởng bản, người có uy tín tự nguyện đăng ký tham gia tự quản, bảo vệ đường biên, cột mốc. Trong đó tiêu biểu như các già Lâu Văn Hự ở bản Pù Đứa, xã Quang Chiểu, Lương Văn Sôi ở bản Cang, xã Mường Chanh, cùng thuộc huyện Mường Lát; già Vi Văn Hợi ở bản Cha Khót, xã Na Mèo, huyện Quan Sơn. Mỗi già mỗi cảnh, nhưng có một điểm chung là cả ba già đều bước đã vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” và cùng được đồng bào xem là những người “truyền lửa” giữ biên cương.
Già làng Lâu Văn Hự bên cột mốc 304 (hay còn gọi là G8)
Đường biên cương không đếm dốc đếm đèo với người lính biên phòng và đồng bào biên giới. Già làng Lâu Văn Hự, một trong ba già làng đảm nhận trông coi ba cột mốc biên giới trên ba đỉnh núi cao nhất Thanh Hóa đón chúng tôi giữa lưng chừng trời của ngọn Pù Đứa. Từng là Bí thư chi bộ bản Pù Đứa, già Hự đã đồng hành cùng cán bộ chiến sĩ Đồn Biên phòng Quang Chiểu vận động bà con định canh, định cư ổn định cuộc sống lâu dài. Nói về việc suốt nhiều năm qua tình nguyện đảm nhiệm trông coi cột mốc G8 nằm cách nhà nửa ngày đường, cách mặt nước biển trên một ngàn mét để kiểm tra mà không đòi hỏi được trả công, dù chỉ một đồng, già Hự bảo đó là để trả cái nghĩa mà Bộ đội Biên phòng đã giúp dân tộc, bản làng của già được định cư tại đất này và có được sự bình yên, no ấm hôm nay.
Suốt nửa đời người, cái chân đã quen dốc mến đèo, đã thuộc rừng, bén suối để mỗi tháng vượt hơn chục cây số lên với “điểm tựa tinh thần” của mình, nay đã bước sang tuổi 93, già Lâu Văn Hự không còn đủ dẻo dai để lên với G8 (sau khi tôn tạo, tăng dày cột mốc có phiên hiệu là cột mốc 304) - cột mốc cao nhất, xa nhất và khó đi nhất phân định ranh giới giữa xã Quang Chiểu với bản Phiềng Khạy thuộc cụm Mường Pùn, huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, Lào. Vậy nên già Hự mong mỏi trước khi về với tổ tiên là được đặt chân lên nơi thân thuộc ấy một lần nữa.
Già Hự bảo: “Đối với tôi, cột mốc G8 cũng giống như cha mẹ mình, giống như Bác Hồ đang đứng cạnh. Tuy Bác đã đi xa nhưng tấm gương của Bác còn soi sáng trong tôi”. Ước mơ giản dị đó của già đã được chương trình Điều ước thứ 7 trân trọng và quyết tâm biến thành hiện thực. Và đó cũng chính là cơ duyên để tôi được gặp cụ già đáng trân quý đó giữa lưng chừng mây, lưng chừng núi.
30 năm kiên trì vượt núi
Tuy đường lên đỉnh núi Đá Đỏ (cao 1889m so với mặt nước biển), nơi có cột mốc G8 chỉ chừng gần 20km, nhưng khó đi vô cùng, toàn phải luồn rừng, vượt dốc. Và đặc biệt nguy hiểm nhất là đoạn vượt qua ngọn Đá Đen dài ngót 5km với vách đá tai mèo dựng đứng. Nếu đi bộ với tốc độ ổn định, trong điều kiện thời tiết tốt, không mưa lũ cũng phải mất hơn nửa ngày trời. Khi thấy đám thanh niên chụm đầu bàn tán làm sao đi cho tốt nhất, già Lâu Văn Hự chốc chốc lại động viên: “Khắc đi khắc đến, mấy cô chú càng bàn càng nản”!
Đường đi khó, dẫu rằng theo miêu tả của già Lự thì đã tốt hơn cách đây 30 năm gấp trăm lần. Bởi ngày ấy, năm 1984 đường không có, già phải tự phát quang dọn cỏ mà đi, tự tìm hướng mà đến. Khi còn khỏe, đều đặn mỗi tuần một lần già lại “cơm đùm cơm nắm” lên đây. Sau này thì thưa hơn, nhưng nếu 3 tháng mà không lên được với G8 một lần là ốm nặng thêm. Chính thế nên già xuề xòa bảo: “Kiểm tra mốc giới cũng như một chuyến đi rừng mà thôi, càng đi càng dẻo gân cốt”.
Hành trang già mang theo trong mỗi chuyến lên cột mốc, chỉ đơn sơ con dao quắm để phát quang bụi rậm, chiếc radio để theo dõi các thông tin chính trị, xã hội của đất nước, cái gậy làm bạn đường trường và nắm cơm để ăn trưa, chai nước suối để giải cơn khát giữa đường rừng… Công việc của già trước đây là phát quang cỏ dại mọc xung quanh, đắp đất vào móng cột mốc, kiểm tra hiện trạng của cột mốc. Nếu có gì thay đổi già Hự đều báo cáo đầy đủ cho cán bộ đồn Biên phòng. Nay có cột mốc mới bền đẹp, chân mốc đổ bê tông cốt thép vững chãi thì công việc của già cũng đỡ vất vả hơn.
Đường lên cột mốc G8
“Bộ đội biên phòng đã phải trải qua bao gian nan, vất vả mới xây dựng được các cột mốc biên giới. Vì địa hình ở đây rất hiểm trở, thời tiết lại hết sức khắc nghiệt, công tác khảo sát, vận chuyển nguyên vật liệu, xây dựng gặp nhiều khó khăn. Đã có người hy sinh trong quá trình xây dựng cột mốc. Thế mà sau khi xây xong, có người vô ý thức lấy cột mốc làm nơi néo giữ gỗ khai thác trong rừng, rồi người dân chăn dắt, buộc gia súc vào cột, hoặc thi thoảng cột lại bị những người vô ý thức đập phá sứt sẹo. Buồn lắm! Chỉ tại họ chưa hiểu hết ý nghĩa của các cột mốc biên giới thôi”, già Hự chia sẻ.
Nhen lửa đến mai sau
“Lên trên đó xa lắm, thường thì tôi phải đi từ sáng tinh mơ. Cả đi cả về mất gần trọn một ngày. Vượt qua 15 khe suối, trong đó có 2 con suối lớn là suối Dục và suối Tiền Xen, vượt qua được 4 đỉnh núi cao là núi Tơ Lưng, Đá Đen, Pù Lậu và đỉnh núi thác Đá Đỏ, nơi có cột mốc biên giới G8. Có lần tôi phải ở lại rừng cả tuần trời mới về được tới nhà vì mưa lũ”, vừa đi, già Hự vừa tâm sự.
Rõ ràng là già biết gian nan, vất vả và cả nguy hiểm nữa chứ không đơn giản là “khắc đi, khắc đến” như già nói lúc chưa lên đường. Con cón trên vai già vẫn là chiếc túi vải có chứa nắm cơm, lưng dắt con dao quắm… ngày đông tháng giá hay ngày hạ nắng hanh cũng chỉ có những thứ ấy làm bạn đường cùng già. Còn chúng tôi thì đoán chắc với nhau rằng, thứ vô giá trong hành trang mà lão niên người Mông ấy khiêm nhường không nói tới chính là tình yêu mãnh liệt đối với mảnh đất biên cương…
Lên đến đỉnh Đá Đỏ, dòng thác lưng chừng núi đổ nước ầm ào, chỉ tay về khoảng rừng thông đang trổ lá, già Hự bảo ở đó, vào năm 1998 có người trồng cả héc ta cây thuốc phiện. Sau khi lại gần quan sát, già nhận định, mình chỉ có một mình, nếu đứng ra phản đối thì chắc chắn sẽ không hiệu quả, thậm chí còn có thể bị đám người kia thủ tiêu bịt đầu mối. Sau khi cân nhắc, già vội xuống núi đến báo ngay với Đồn biên phòng Quang Chiểu. Ngay sáng hôm sau, một đoàn công tác với đầy đủ trang thiết bị cần thiết đã lên khu vực này để tuyên truyền, vận động nhóm người trồng cây thuốc phiện tự phá bỏ. Khu đất đó sau được Bộ đội Biên phòng trồng rừng vành đai biên giới.
Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Hiếu, người từng giữ chức vụ Đồn trưởng Đồn Biên phòng Quang Chiểu trong nhiều năm cho biết: “Những già làng như cụ Lâu Văn Hự, cụ Phàn Định Xiết cùng con cháu các cụ sau này đều là điển hình tiêu biểu trong phong trào “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc và an ninh trật tự xóm, bản khu vực biên giới”. Không chỉ tình nguyện bảo vệ cột mốc, các cụ còn vận động con cháu, người dân trong xã tích cực bảo vệ đường biên, mốc giới và xây dựng tình đoàn kết trong thôn bản cũng như tình đoàn kết giữa nhân dân hai bên biên giới…”.
Lâu Văn Lự, Lâu Văn Lâu, Lâu Văn Lênh... ba người con trai của già Hự giờ cũng lần lượt được giao trọng trách thay cha bảo vệ đường biên mốc giới. Già Hự cũng đã lên Đồn Biên phòng Quang Chiểu xin ý kiến và được đồng ý với việc chuyển giao này. Không chỉ vậy, mỗi lần có cuộc gặp gỡ hay họp dân bản, già Hự đều tuyên truyền, giúp bà con hiểu được tầm quan trọng của cột mốc, để chung sức, đồng lồng bảo vệ. Nhờ có sự tuyên truyền của già mà người dân nơi đây dần nhận thức rõ vai trò của cột mốc, góp phần đảm bảo cho sự toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững tình đoàn kết, hữu nghị Việt - Lào.
Rời Mường Lát, chúng tôi nhớ mãi lời già Hự răn dạy con cháu: “Biên giới của Tổ quốc là mảnh đất thiêng liêng mà các thế hệ cha ông đã phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt và hy sinh biết bao xương máu mới có được, thế nên chúng ta cần phải biết trân trọng, giữ gìn”. Quả thật, có đứng ở nơi mà chỉ cần một bước chân đã sang đến quốc gia khác, người ta mới cảm nhận hết sự thiêng liêng của hình ảnh lá cờ Tổ quốc và hai tiếng chủ quyền, mới nhận ra được việc làm của già Hự thật ý nghĩa và đáng trân trọng biết bao.