Học sinh tiểu học có khẩu phần ăn uống giàu năng lượng và protein thậm chí cao hơn nhiều so với ngưỡng khuyến nghị, nhưng mức độ tham gia các hoạt động thể lực lại thấp, dẫn đến tỷ lệ thừa cân, béo phì khá cao, nhất là ở khu vực thành thị.
Ngày 3/7, tại Hà Nội, Viện Dinh dưỡng Quốc gia đã tổ chức Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu về “Tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần, tần suất và thói quen tiêu thụ thực phẩm của học sinh tiểu học, THCS và THPT ở một số tỉnh thành Việt Nam”.
Đây là một nghiên cứu độc lập của Viện Dinh dưỡng, nhằm đánh giá chính xác thực trạng dinh dưỡng của học sinh ở các độ tuổi các nhau, ở khu vực địa lý tình trạng xã hội khác nhau, từ đó tìm ra những nguyên nhân và giải pháp cho các vấn đề đề liên quan như thừa cân, béo phì và suy dinh dưỡng.
PGS.TS Trần Thúy Nga - Trưởng Khoa nghiên cứu Vi chất dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết, nghiên cứu trên được tiến hành tại 25 xã phường (75 trường) thuộc 5 tỉnh, thành phố: Hà Nội, TP.HCM, Thái Nguyên, Nghệ An, Sóc Trăng, trong thời gian từ 2017 đến 2018. Số lượng mẫu điều tra gồm hơn 5.000 học sinh, gồm học sinh tiểu học, học sinh THCS, học sinh THPT.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự tồn tại đồng thời cả hai vấn đề suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì ở trẻ em và có sự khác biệt theo vùng. Trẻ em ở vùng nông thôn có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao; thừa cân béo phì tập trung ở vùng thành thị. Tỷ lệ thừa cân béo phì cao nhất ở trẻ em tiểu học và thấp nhất ở học sinh THPT.
Tỷ lệ học sinh bị thừa cân, béo phì ngày càng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị
Cụ thể, trong khi học sinh tiểu học ở thành phố có tỷ lệ béo phì là 22,7% thì học sinh ở vùng nông thôn chỉ chiếm 7,4%. Khi tính chung, tình trạng thừa cân béo phì của học sinh tiểu học thành thị chiếm 41,9% và nông thôn 17,8%.
Đối với học sinh THCS, học sinh thành thị thừa cân chiếm 20,9%, trong khi học sinh nông thôn là 7,9%. Tuy nhiên, học sinh THCS vùng nông thôn lại có tỷ lệ thấp còi lên tới 20,1%, còn học sinh thành thị là 3,8%. Tương tự, học sinh THCS vùng nông thôn có tỷ lệ gầy còm lên tới 15,6%, học sinh thành thị là 3,4%.
Đối với học sinh THPT, tỷ lệ thừa cân béo phì thấp hơn so với học sinh cấp tiểu học và THCS. Nhưng, học sinh THPT vùng thành thị vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn so với học sinh vùng nông thôn, lần lượt là 13,5% và 6,2%. Tỷ lệ thấp còi ở học sinh THPT nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ cao 14,9% và học sinh thành thị là 8,6%.
Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ, bao gồm tuổi, giới tính, khu vực sinh sống, điều kiện kinh tế xã hội và trình độ văn hóa của bố mẹ,.. Chế độ ăn uống và sinh hoạt cũng liên quan trực tiếp đến tình trạng này. Thường xuyên ngồi trước màn hình, sử dụng nhiều đồ uống có đường chế biến và bán trên đường phố (như nước mía, nước đá bào siro, trà sữa...) làm tăng nguy cơ thừa cân, béo phì.
Điều đáng chú ý, nghiên cứu cho thấy nhóm không thừa cân, béo phì lại có xu hướng tiêu thụ các loại đồ uống có đường sản xuất công nghiệp và các thực phẩm có đường nhiều hơn so với nhóm thừa cân, béo phì.
Ngược lại, nhóm thừa cân, béo phì lại có tần suất tiêu thụ các loại đồ uống đường phố cao hơn so với nhóm không thừa cân, béo phì. Theo nghiên cứu, tần suất sử dụng đồ uống có đường trên đường phố là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh thừa cân, béo phì của học sinh THPT lên 1,4 lần.
Tại hội thảo, PGS.TS Trần Thúy Nga - Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu đã đưa ra một số khuyến nghị: “Cần định hướng các chương trình can thiệp phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em ở vùng nông thông và phòng chống thừa cân, béo phì ở khu vực thành thị, tăng cường truyền thông giáo dục tại nhà trường về chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng cân đối, hợp lý.
Bên cạnh đó, gia đình, nhà trường và các ban ngành cần tạo điều kiện cho trẻ bữa ăn lành mạnh, cân đối, tạo sân chơi để trẻ vận động, chơi thể thao, đảm bảo giấc ngủ hàng ngày cho trẻ”.