Chị Nguyễn Thị Hồng (sinh năm 1989, trú tại Quảng Thành, TP Thanh Hóa) hỏi: Hiện tôi đang ký hợp đồng 01 năm với công ty da giày đóng tại khu công nghiệp Lễ Môn. Do chế độ đãi ngộ không như mong muốn nên tôi có ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Xin hỏi quý báo, pháp luật quy định như thế nào để đảm bảo quyền lợi của người lao động?
Luật sư Trịnh Thị Tuấn, Giám đốc Công ty Luật Sao Việt cho biết, pháp luật đã quy định cụ thể việc chấm dứt hợp đồng lao động. Cụ thể theo Điều 34, Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14.
Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động (Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14), cụ thể:
a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn; b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng.
(Khoản 2 Điều 35 Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14) quy định, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động theo đúng quy định;
b) Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn theo quy định của pháp luật lao động.
c) Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
d) Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc; đ) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. e) Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
g) Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định của pháp luật lao động về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.
Theo Khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14 thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Trách nhiệm của người sử dụng lao động được quy định tại Khoản 1 Điều 45, khoản 1 và khoản 3 Điều 48 Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động được quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14: Trong thời hạn 14 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, thanh toán đầy đủ các khoản tiền có liên quan đến quyền lợi của người sử dụng lao động.
Khi chấm dứt hợp đồng lao động, thì người lao động được hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc theo quy định tại Điều 46, Điều 47 Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14. Cụ thể:
1) Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định, người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, trừ một số trường hợp…
2) Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm.
3) Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động thôi việc.
4) Khi cho người lao động thôi việc trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế, khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập; bán, cho thuê, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một tháng tiền lương, ít nhất bằng 02 tháng tiền lương.