Trải ngàn năm dựng nước, cha ông ta đã luôn coi trọng nhân dân, luôn đề cao tư tưởng lấy dân làm gốc trong mọi vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh. Và đặc biệt, trong suốt chiều dài lịch sử ấy, vận nước tuy có lúc suy, lúc thịnh, nhưng từ các triều đại phong kiến đến ngày nay, việc giữ gìn văn hóa Việt luôn được đặt lên hàng đầu. Bởi thế mà đất nước Việt Nam mới “non sông nghìn thủa vững âu vàng”.
Dải vành đai an ninh văn hóa
Nhân dân là “tác giả” sáng tạo ra lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa dân tộc. Kế thừa và tiếp nối truyền thống cha ông về tinh thần “thân dân, trọng dân, yêu dân” và sức mạnh “chở thuyền, lật thuyền” của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Chính sức mạnh đoàn kết, tinh thần yêu nước nồng nàn của các thế hệ người dân Việt Nam đã góp phần làm nên những chiến công rực rỡ, đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ và gìn giữ nền độc lập, tự do, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng văn hóa, ngay từ rất sớm Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nhân dân. Trong bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Trung ương Đảng nhấn mạnh đến tính chất của nền văn hóa mà toàn thể nhân dân Việt Nam hướng đến xây dựng, đó là nền văn hóa thấm đẫm tinh thần dân tộc hóa, đại chúng hóa. Điều này cần đặc biệt lưu tâm khi tình hình các thế lực thù địch đang lợi dụng diễn biến hòa bình vấn đề Dân tộc để tìm mọi cách chống phá Cách mạng Việt Nam.
Vỏ bọc che đậy cho các hành vi, thủ đoạn xấu xa mà các thế lực thù địch thường dựa vào là các chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ", "tự do", nhất là tự do tín ngưỡng, tôn giáo; những vấn đề do lịch sử để lại; những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số…
Bên cạnh đó, chúng còn truyền bá các sản phẩm văn hóa độc hại làm băng hoại những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Thực chất đây là hình thức “xâm lăng văn hóa” rất nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác và chủ động đấu tranh.
Một trong những vấn đề nền tảng trong cuộc chiến chống “xâm lăng văn hóa” là chúng ta cần tạo ra sức đề kháng, đó chính là môi trường văn hóa lành mạnh ở ngay mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị và mỗi gia đình. Đây cũng là phương châm kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhân tố quyết định, “chống” là quan trọng.
Đại tá, Nhà giáo ưu tú, nguyên Chủ nhiệm khoa Nghệ thuật dân tộc và miền núi trường Đại học Nghệ thuật quân đội Nguyễn Chính Nghĩa cho biết: “Từ khi khoa Nghệ thuật dân tộc và miền núi mới mở đã có những con em là người đồng bào dân tộc thiểu số, họ chỉ sống theo bản năng và phản ứng với môi trường tự nhiên xung quanh. Không biết đến chữ viết, không biết nói tiếng phổ thông. Khi thầy, cô nói họ không hiểu và chỉ dùng những cử chỉ để biểu đạt cảm xúc của mình. Nhưng các em đều có những đặc điểm chung là sự kết nối mạnh mẽ với cộng đồng, sự tôn trọng đối với truyền thống và văn hóa và những giá trị nhân đạo mà tổ tiên các em để lại.
Chính vì vậy, âm thanh của những nhạc cụ dân tộc trong giảng dạy đã khai sáng, cảm hóa và xóa bỏ rào cản giữa các em với thế giới bên ngoài. Các em đã hiểu về tình yêu, hiểu sự thiêng liêng của hai tiếng Tổ quốc. Giờ đây, các em đã trưởng thành, là những ca sỹ, nhạc sỹ mang trong mình ngọn lửa đam mê với âm nhạc, nhạc cụ dân tộc từ đó truyền bá lại cho thế hệ mai sau, trong đó có cả tình yêu với Tổ quốc, với quê hương”.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, để đặt ách đô hộ đối với Việt Nam, các thế lực xâm lược luôn tìm mọi cách để đồng hóa dân tộc ta, trước hết về văn hóa. Song, lịch sử cũng chứng minh rằng, không có một thế lực nào thực hiện được dã tâm đó, bởi nền văn hóa đặc sắc đã được hình thành, thử thách, tôi luyện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước đã trở thành cốt cách, nền tảng của dân tộc ta.
Đại tá, TS. Hà Đức Long, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng chia sẻ: “Để văn hóa thực sự là công cụ bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, chống lại sự “xâm lăng văn hóa” của kẻ thù, chúng ta phải quán triệt, thực hiện tốt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ, lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung và tôn trọng những giá trị văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc không trái với lợi ích quốc gia, dân tộc, tạo động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó, chủ động phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh: giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái đặc thù và cái phổ biến,... trong hội nhập văn hóa; tạo điều kiện thuận lợi phát huy nguồn cảm hứng của mọi cá nhân, cộng đồng trong sáng tạo những giá trị hiện thực của văn hóa dân tộc theo định hướng của Đảng.
Đồng thời, kế thừa giá trị văn hóa truyền thống đã được hình thành, thử thách, tôi luyện trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước; tiếp thu những giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại, sáng tạo giá trị văn hóa mới, nhằm phát huy cao độ giá trị văn hóa dân tộc và ngăn chặn hiệu quả sự “xâm lăng văn hóa” phản tiến bộ len lỏi vào đời sống tinh thần nhân dân”.
Và trên hết, đó là chính sách giáo dục, khích lệ thế hệ trẻ tham gia xây dựng, phát triển, truyền bá các giá trị văn hóa từ cổ điển đến hiện đại của quốc gia, dân tộc. Đối sánh với con người và tiềm lực hiện có cùng với một nền văn hóa truyền thống đa dạng của 54 dân tộc anh em, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng các ngành công nghiệp văn hóa lớn mạnh như thế. Mà một trong những chìa khóa mở ra thành công ấy chính là quan tâm, trao niềm tin, tạo cơ hội hơn nữa để thế hệ trẻ xây dựng, bảo vệ và phát triển văn hóa nước nhà.
Giáo dục nhạc cụ dân tộc: Dạy người, dạy nghề, dạy trách nhiệm
Đồng chí Bùi Quang Huy, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội thảo văn hoá 2022: “Trong quá trình toàn cầu hoá và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, các giá trị văn hóa Việt Nam đã và đang phát triển và khẳng định hơn vị thế của mình trên trường quốc tế. Điều đó đã mở ra cơ hội cho người dân Việt Nam được nâng cao tầm nhìn, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao sự hiểu biết về nền văn hóa thế giới, làm phong phú thêm đời sống văn hóa, tinh thần của người dân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Nhất là việc giữ vững những giá trị văn hoá mang tính bản sắc của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đưa văn hóa trở thành động lực nội sinh của sự phát triển và quảng bá văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới. Nhiệm vụ đó có trách nhiệm rất lớn của thế hệ trẻ, những người được thụ hưởng nhiều giá trị của văn hóa, đồng thời là những người có khả năng sáng tạo lớn nhất, tiềm năng nhất, đông đảo nhất tạo ra những sản phẩm văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc. Do đó hoạt động cụ thể, thiết thực để bảo tồn các giá trị văn hoá, nhạc cụ dân tộc là tăng cường giáo dục”.
Trong rất nhiều các hội thảo, nhiều chuyên gia, nhà nghiên cũng cho rằng, để bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, không thể dùng những biện pháp mang tính cưỡng ép hay cứng nhắc. Nhạc cụ dân tộc, nếu không hiểu, không yêu, không đam mê thì chắc sẽ rất ít người tìm học. Vì thế cho nên, không thể đặt nặng vấn đề trách nhiệm với giới trẻ là phải bảo tồn những giá trị văn hóa, âm nhạc cổ khi họ chưa hiểu, chưa thích và chưa yêu nó.
Toán, Hóa Học, Tiếng Anh… vì sao giới trẻ lại đổ sô đi học và đến phụ huynh cũng phải “chạy đua” trong việc nạp kiến thức cho con. Vì đơn giản, những bộ môn này phục vụ cho những thứ thiết thực trong cuộc sống, giúp học sinh phát triển năng lực. Nhưng để toàn diện thì lại cần phải có kiến thức về nghệ thuật, đặc biệt là những giá trị văn hóa của dân tộc.
Do vậy, để giáo dục giới trẻ về nhạc cụ dân tộc thì trước hết hãy dạy cho họ hiểu và trân trọng những giá trị văn hóa cổ. Khi đã có kiến thức thì cần những không gian để họ bày tỏ hiểu biết, trình độ của mình. Còn những ai đã chọn đi theo con đường nghệ thuật chuyên nghiệp thì chí ít hãy để nó có thể là một nghề để người ta có thể sống, có thể nuôi gia đình. Chứ đừng chỉ dừng lại là nghiệp…
Khi đã có bản lĩnh, thái độ, trình độ về các giá trị văn hóa. Giới trẻ sẽ tự tin, không đánh mất mình trong hưởng thụ, bảo tồn và phát triển những dưỡng chất văn hóa tốt đẹp của ông cha để lại. Nhưng đây là “bài toán” khá khó cần sự đồng lòng góp sức của nhiều đơn vị, nhiều người có tâm huyết.
Là nơi có vị thế nhất trong việc giáo dục, đào tạo về nhạc cụ dân tộc - Viện Âm nhạc Việt Nam cũng đang đưa những hình thức âm nhạc mang đậm bản sắc dân tộc, những nhạc cụ truyền thống… đến gần hơn với giới trẻ.
Theo bà Đặng Hoài Thu, Quản lý Phòng trưng bày Viện Âm nhạc Việt Nam cho biết, thời gian gần đây, Viện Âm nhạc đã phát động phong trào mời các trường đến thăm quan và giới thiệu cho các em về nhạc cụ dân tộc, cũng như biểu diễn các loại hình âm nhạc dân tộc để các em hiểu, biết được âm nhạc Việt Nam mình rất là phong phú và đa dạng.
Cũng theo bà Thu, điều quan trọng để nhạc cụ dân tộc đến gần hơn với giới trẻ là đưa nhạc cụ vào học đường, biến nó trở thành một môn học. Từ đó giúp các em phần nào hiểu biết và nắm bắt được Việt Nam mình có những loại nhạc cụ gì. Để từ đó các em biết được những giá trị về những loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam và nói được văn hóa của những nhạc cụ đó.
Hiện nay ở Viện Âm nhạc Việt Nam có bảo tồn nhiều loại nhạc cụ khác nhau bằng hình thức như có phòng sưu tầm và nghiên cứu để giữ được truyền thống giới thiệu đến du khách. Du khách không thể đến tận nơi các vùng dân tộc để xem nhạc cụ đó. Chính vì vậy Viện Âm nhạc Việt Nam đã mang âm hưởng và nhạc cụ về đây để trình diễn và giới thiệu cho du khách và các sinh viên tận mắt chứng kiến. Đấy chính là một trong các cách bảo tồn sống trong âm nhạc Việt Nam.
Theo Đại tá, Nhà giáo ưu tú, nguyên Chủ nhiệm khoa Nghệ thuật dân tộc và miền núi trường Đại học Nghệ thuật quân đội Nguyễn Chính Nghĩa cho biết: “Việc các trường chỉ dạy riêng từng loại nhạc cụ dân tộc thôi chưa đủ. Mà mỗi loại nhạc cụ đều có một không gian cũng như cách biểu diễn riêng trong cuộc sống và trong từng thể loại dân gian. Như cũng là tiếng sáo, tiếng trống, tiếng đàn nguyệt nhưng trong chèo được thể hiện một kiểu khác và trong cải lương lại là một cách biểu diễn khác. Chính vì thế, các trường được đào tạo chuyên nghiệp, bài bản phải kết hợp cả dạy kiến thức và dạy thực tế để các em có cơ hội được tiếp xúc với chính nền văn hóa đã tạo ra nhạc cụ đó, để hiểu sâu hơn ý nghĩa và chơi nhạc cụ đó sao cho đúng, cho chuẩn và ra chất nhất”.
“Bên cạnh việc dạy học, các nhà trường cũng nên là nơi chủ động sưu tầm, lưu giữ những loại nhạc cụ cổ. Ghi chép lại những lời ca, làn điệu cổ trong dân gian. Đó là nguồn văn hóa vô giá cần bảo tồn. Đồng thời cũng là nguồn tri thức thực tế quý báu để dạy lại cho thế hệ mai sau”, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Chính Nghĩa chia sẻ.
Nếu muốn giới trẻ biết và chủ động tìm hiểu về nhạc cụ dân tộc thì chúng ta không chỉ trông chờ vào các cơ sở giáo dục chuyên về âm nhạc. Mà những kiến thức nền tảng về các nhạc cụ dân tộc Việt Nam phải được phổ cập trong chương trình giáo dục. Một khi mặt bằng kiến thức của học sinh, sinh viên đã tốt lên thì họ sẽ tự có ý thức về cách hưởng thụ, cách tìm hiểu và cách bảo tồn nhạc cụ dân tộc.
Ví dụ như Đề án Giáo dục âm nhạc dân tộc trong trường học trên địa bàn TP Hồ Chí Minh được bắt đầu từ năm 2016 và kéo dài 5 năm. Đề án bao gồm 3 giai đoạn với những mục tiêu khác nhau. Mục đích giáo dục âm nhạc dân tộc không phải đào tạo ra các nhạc sĩ, nghệ sĩ, mà chỉ nên chú trọng đến giáo dục thẩm mỹ âm nhạc dân tộc cho học sinh, sinh viên. Chương trình sẽ dạy kiến thức giúp các em cảm thụ được âm nhạc và phân biệt cách chơi các loại nhạc cụ cũng như nhận biết được đâu là cải lương, hát bội, hát then…
Xét về tầm vĩ mô, đứng trước nguy cơ các giá trị văn hóa truyền thống mai một. Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức cuộc thi “Độc tấu và hòa tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc” nhằm tôn vinh, quảng bá, bảo tồn và phát huy các giá trị của âm nhạc truyền thống, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Dù còn ít nhưng chính những “sân chơi” riêng của nhạc cụ dân tộc như thế này đã và đang khẳng định lại vị thế trong thị trường âm nhạc Việt Nam.
“Bên cạnh việc dạy học, các nhà trường cũng nên là nơi chủ động sưu tầm, lưu giữ những loại nhạc cụ cổ. Ghi chép lại những lời ca, làn điệu cổ trong dân gian. Đó là nguồn văn hóa vô giá cần bảo tồn. Đồng thời cũng là nguồn tri thức thực tế quý báu để dạy lại cho thế hệ mai sau”.
Nhà giáo ưu tú Nguyễn Chính Nghĩa
Tất cả đều hy vọng, sau bao biến thiên, thăng trầm lịch sử, nhạc cụ truyền thống vẫn ngân vang, nói lên những ước mơ, khát vọng của dân tộc Việt Nam. Tiếng sáo, tiếng đàn bầu, tiếng đàn T’rưng,... vẫn sẽ luôn là cầu nối giữa con người với thiên nhiên, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là cầu nối văn hóa đặc biệt giữa đất nước Việt Nam với bạn bè năm châu.
Những nghệ sĩ lãng du trong thanh âm từ thiên nhiên
Nhạc cụ dân tộc đang có những khởi sắc mới do nhu cầu về văn hóa nói chung và âm nhạc nói riêng ngày càng cao. Ngoài thưởng thức âm nhạc giao hưởng phương tây, người xem đòi hỏi âm nhạc truyền thống cần phải mới mẻ, sáng tạo để phù hợp với thị hiếu của mọi tầng lớp và tìm ra phương thức hoạt động, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các loại hình âm nhạc truyền thống trong thời kỳ mới.
Nhìn ở mặt tích cực, có thể thấy, trong những năm trở lại đây, nhiều đột phá trong suy nghĩ và hành động của người trẻ đã tạo ra những giải pháp bất ngờ trong gìn giữ, bảo vệ, phát huy văn hóa truyền thống trong đời sống hiện đại. Trong đó, Ngô Hồng Quang được đánh giá là một trong những nghệ sĩ đương đại hàng đầu tại Việt Nam, là người có công trong việc tìm tòi, hòa trộn để phát triển các chất liệu âm nhạc truyền thống Việt Nam giới thiệu với thế giới.
Ngô Hồng Quang sinh năm 1983 tại Hải Dương, có bố làm trong lực lượng cảnh vệ bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẹ là giáo viên. Từ nhỏ Quang đã được kết nối với âm nhạc qua ông nội của mình - một người chơi đàn nhị có tiếng trong vùng. Chính nhờ có ông mà cậu bé Quang đã say mê tiếng đàn nhị và dần dà tiếp thu, cảm thụ một cách tinh tế những làn điệu hát chèo, chầu văn, xẩm... Quang nuôi dưỡng tình yêu sâu sắc với dòng nhạc chứa đựng tâm hồn dân tộc và được cha mẹ cho theo học nhị tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam từ sơ cấp đến đại học.
Tình yêu âm nhạc và quãng thời gian dài khổ luyện, Ngô Hồng Quang đã trở thành một nhạc công sử dụng thành thục, và ngạc nhiên hơn, dưới ngón tay điêu luyện tài tử của mình anh đã biến cây nhị mà nhiều người vẫn quan niệm là một nhạc cụ giản đơn, nghèo sắc thái thành âm nhạc đầy biến ảo giàu sắc thái.
Vào năm 2006, 2007, Ngô Hồng Quang đã có 2 chuyến lưu diễn tại châu Âu. Âm nhạc như cầu nối gắn kết yêu thương. Người bản địa cực kì ngạc nhiên với âm nhạc dân tộc Việt, họ chăm chú lắng nghe suốt 90 phút và sau đó đặt ra nhiều câu hỏi lý thú về nhạc cụ dân tộc.
Trở về Việt Nam, Quang luôn trăn trở và quyết định "đánh quả liều" khi cho ra đời cùng lúc 3 tác phẩm: "Thiền", "Sắc tộc", "Thường xuân". Đó thực thụ là sự biến ảo âm nhạc đa sắc với tiếng đàn bầu, đàn tam, chuông mõ, sáo, tiêu, đàn môi, nhị, thập lục, cồng...
Kể thừ đó, Ngô Hồng Quang đã biểu diễn ở nhiều quốc gia và khắp mọi châu lục và trở thành đại sứ văn hóa Việt Nam thông qua âm nhạc. Trong những chuyến đi ấy, Quang mang theo niềm tự hào lớn nhất là người Việt và chơi nhạc Việt Nam. Ngoài việc truyền bá âm nhạc truyền thống, sự gắn kết của ngôn ngữ đa thanh với âm nhạc, khán giả nước ngoài còn thấy được cuộc sống âm nhạc đương đại và phong cách sống của một người nghệ sĩ âm nhạc dân tộc thời nay của Việt Nam.
“Tiếp cận âm nhạc cổ truyền Việt Nam theo đúng lối truyền thống thì không phải ai cũng dễ cảm nhận. Nhiều khi người nghe cần phải hiểu đã rồi mới cảm thấy hay. Còn việc kết hợp bài bản, giai điệu, nhạc cụ truyền thống với hòa âm phối khí hiện đại, tôi thấy tạo ra một sự mới mẻ, hiện đại hơn, khiến người ta dễ tiếp cận và đón nhận hơn”, nghệ sĩ Ngô Hồng Quang chia sẻ.
Cũng là một nghệ sĩ trẻ, Vàng Minh Dương lại không lựa chọn việc kết hợp âm nhạc hiện đại, nhạc điện tử cùng các nhạc cụ dân tộc, mà anh cố gắng khai thác triệt để những bản sắc riêng của các nhạc cụ truyền thống, qua đó góp phần khẳng định: Dù thị trường nhạc điện tử có phát triển mạnh mẽ đến đâu cũng không thể thay thế được những giai điệu đẹp từ các nhạc cụ truyền thống của Việt Nam.
Tuy không sinh ra trong gia đình có truyền thống văn hóa dân gian - vì bố Minh Dương là một nghệ sĩ chơi đàn organ - nhưng những làn điệu hát then, hát lượn cùng tiếng dập dìu của quả nhạc, thanh la của dân tộc Tày đã ngấm vào máu chàng nghệ sĩ trẻ. Từ đó, Minh Dương quyết định học tập và đi theo con đường nghệ thuật chuyên nghiệp.
Trong 7 năm theo học trường Đại học Văn hóa nghệ thuật Quân đội, Minh Dương đã gặt hái được nhiều huy chương về biểu diễn nhạc cụ dân tộc. Đến khi ra trường, dù không đi theo con đường giảng dạy nhưng anh cũng tiếp tục theo đuổi ước mơ, tình yêu với nghệ thuật dân tộc.
Đặc biệt, Minh Dương là một trong ít những nghệ sĩ trẻ có các tác phẩm đoạt giải vàng trong cuộc thi Hòa tấu và độc tấu nhạc cụ dân tộc toàn quốc 2021 như: Men say, Truy Kích, Non sông một dải... Đây là những bản hòa tấu của dàn các nhạc cụ dân tộc. Một trong những tác phẩm đó đã dành giải Nhất tại cuộc thi Army Game tổ chức tại Liên bang Nga và được bạn bè quốc đánh giá cao.
Nghệ sĩ Minh Dương chia sẻ: “Không chỉ với khán giả quốc tế mà ngay đến những người dân Việt Nam đều rất thích thú với những bản hòa tấu nhạc cụ dân tộc. Bởi mỗi loại nhạc cụ đều mang những đặc trưng, những giai điệu riêng biệt. Khi kết hợp chúng tạo ra một âm thanh hài hòa, tinh tế nhưng rất sâu lắng trong truyền đạt một thông điệp riêng. Ví như sự kết hợp giữa đàn bầu và đàn tranh tạo ra âm thanh nhẹ nhàng, tĩnh lặng, trong khi kèn đồng và trống tạo nên sự mạnh mẽ, sôi động. Còn trong bản hòa tấu về mùa xuân, các nhạc cụ như đàn tranh, đàn nguyệt, sáo trúc lại được sử dụng để tạo ra một không khí tươi vui, sảng khoái và mát mẻ”.
Không chỉ tham gia biểu diễn, sáng tác những sản phẩm nghệ thuật về các nhạc cụ truyền thống Minh Dương còn là nhà sản xuất âm nhạc dòng dân gian. Dù trang bị trong phòng làm việc những thiết bị hiện đại để làm việc nhưng chất liệu chủ yếu mà anh dùng trong các bản phối lại là các loại đàn dân tộc.
Nam nghệ sĩ chia sẻ: “Hòa âm phối khí là việc kết hợp các giai điệu, âm thanh và nhịp điệu khác nhau để tạo ra một tác phẩm âm nhạc đầy đủ và đa dạng. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, những âm thanh giả vẫn có thể tạo ra dễ dàng như tiếng sáo điện tử, tiếng trống, tiếng đàn tranh… đều có trong bộ âm thanh trên máy tính hay kĩ xảo điện tử. Nhưng những luyến láy của nghệ sĩ là không thể thay thế. Vì mỗi một loại nhạc cụ đóng vai trò hồn cốt để thể hiện các nét giai điệu, tuyến âm nhạc truyền thống. Như bản phối mang âm hưởng làn điệu Chèo thì phải có đàn nhị, sáo, tranh, bầu. Bản nhạc về vùng Tây Nguyên thì phải có đàn T’rưng, sáo vỗ hay đàn môi.
Với sự phát triển của công nghệ âm thanh, chúng ta có thể truy cập đến hàng triệu bản nhạc từ khắp nơi trên thế giới chỉ bằng một cú nhấp chuột. Và cũng có thể lợi dụng điều này để quảng bá âm nhạc truyền thống của Việt Nam tới bạn bè quốc tế. Chính vì vậy, từ khi đi học cho tới khi làm nghề tôi luôn chọn và trung thành với nhạc cụ dân tộc. Vì trong tương lai không xa, nhạc cụ truyền thống Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và có vị thế vững chắc cho dù thị trường âm nhạc có đổi thay như thế nào”…
Có thể nói, dù ở bất cứ thời đại nào thì văn hóa luôn là hồn cốt của mỗi quốc gia, mỗi tộc người. Để gìn giữ cho dòng chảy văn hóa đó không bị lãng phai hay đứt gãy đi thì điều quan trọng là phải tạo ra được tính liên tục và sự kế thừa. Và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Chính vì vậy, muốn công tác bảo tồn di sản âm nhạc dân tộc hiệu quả cao hơn, các địa phương cần xây dựng phong trào dạy và học nhạc cụ dân tộc sôi nổi hơn, phù hợp với từng dân tộc, cộng đồng; có cơ chế phù hợp về đầu tư kinh phí để thu hút người dạy và học; các hội thi về di sản âm nhạc truyền thống cần có hình thức thu hút, kích cầu qua trao giải…
Đặc biệt, lãnh đạo địa phương, các cấp, ngành liên quan cần thấy rõ giá trị âm nhạc cổ truyền của các dân tộc, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản.
Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các nghệ nhân, nghệ sĩ làm công tác bảo tồn di sản âm nhạc ở mỗi địa phương để động viên, khích lệ tinh thần lao động, sự đam mê, sáng tạo của họ, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có âm nhạc dân tộc.
Nội dung - Đồ họa: Tuyết Nhung