Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, xử lý thế nào?

Mai Thoa-Cảnh Dinh| 25/11/2020 17:07
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Ngày 25/11, TANDTC phối hợp với Tổ chức JICA - Nhật Bản, tổ chức Hội thảo về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Tiến chủ trì hội thảo. Dự hội thảo còn có các chuyên gia, Thẩm phán đến từ Tòa án Nhật Bản, các Tòa án Việt Nam các tỉnh phía Bắc.

Những vướng mắc cần hoàn thiện

Phát biểu tại hội thảo, Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Tiến cho biết, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam, Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS 2015) đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Đây là bước phát triển quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước, đánh dấu nhiều điểm tiến bộ, là bước phát triển mang tính đột phá trong tư duy lập pháp hình sự của Việt Nam.

z2195783550232_db198e62ca636df938b43cefa053e23c.jpg
Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Tiến  phát biểu tại hội thảo

Việc ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại trong BLHS 2015 xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi cấp bách trong thực tiễn xét xử. Điều này thể hiện quan điểm hoàn toàn đổi mới của các nhà lập pháp Việt Nam về chủ thể của tội phạm và đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong việc tập trung xử lý những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, tài trợ khủng bố và rửa tiền, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân.

Theo Phó Chánh án, pháp nhân thương mại tuy là chủ thể của tội phạm, nhưng không phải là chủ thể của tất cả các tội phạm quy định trong BLHS và chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự một số tội phạm có liên quan trực tiếp đến hoạt động của pháp nhân đó. Pháp nhân thương mại chỉ bị xử lý hình sự đối với 33 tội theo quy định tại Điều 76 BLHS 2015.

Trong số 33 tội danh, có những tội liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của pháp nhân thương mại như tội trốn thuế; tội buôn lậu; tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động... nhưng cũng có tội ít liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của pháp nhân thương mại như tội tài trợ khủng bố và tội rửa tiền. Tuy nhiên, kể từ khi BLHS 2015 được ban hành, cho đến nay vẫn chưa có pháp nhân thương mại nào bị đưa ra xét xử tại Tòa án. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trên thực tế còn gặp phải một số vướng mắc cần được hoàn thiện.

Phát biểu tham luận tại hội thảo, TS Phạm Minh Tuyên, Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh cho biết: Các nghiên cứu về tội phạm học của thế giới gần đây đã cho thấy sự phát triển của các loại tội phạm nguy hiểm ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, điều rất đáng chú ý là nó được hoạt động dưới các hình thức của các Công ty hợp pháp, có trụ sở và tài sản riêng và tính chất cấu kết hoạt động dưới hình thức các tổ chức tội phạm có mạng lưới và phương thức hoạt động hết sức chặt chẽ trên toàn thế giới.

Trên thực tế, những vấn đề đặt ra từ việc thực hiện chế định trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội vẫn còn một số vấn đề như:

Một là, về vi phạm áp dụng của chế định trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt chỉ áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội là không phù hợp với nội dung của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Hai là về hình phạt, cần rà soát, tiến hành hướng dẫn các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với pháp nhân thương mại theo quy định tại Điều 82 của BLHS 2015.

Ba là, cần xác định rõ tư cách tham gia tố tụng của người đại diện cho pháp nhân thương mại phạm tội khi tham gia tố tụng.

Tại khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định nguyên tắc xác định mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân và trách nhiệm của pháp nhân, tuy nhiên pháp nhân không phải thể nhân, mà là tổ chức nên khi tham gia tố tụng thì phải có người đại diện theo pháp luật theo quy định tại Điều 434 Bộ luật TTHS 2015.

Trong trường hợp người đại diện cho pháp nhân tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thì gọi họ là gì? Không thể gọi họ là bị can hay bị cáo được vì họ không phải là người phạm tội. Vấn đề này cũng cần phải có hướng dẫn cụ thể.

img_8000.jpg
Quanh cảnh hội thảo

Xử lý hình sự pháp nhân, nhưng bảo vệ quyền lợi người lao động thế nào?

Theo TS Phạm Minh Tuyên, đáng chú ý là vấn đề thứ tư được đặt ra là về hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Pháp nhân thương mại không phải là thể nhân, nên tự thân pháp nhân thương mại không thể phạm tội được mà là do một nhóm người nắm quyền lãnh đạo của pháp nhân thương mại đó phạm tội chứ không phải tất cả các cổ đông hay người lao động của pháp nhân thương mại đó phạm tội. Vậy khi áp dụng hình phạt đối với pháp nhân thương mại có tính đến quyền lợi của các cổ đông hay những người lao động thuộc pháp nhân thương mại đó hay không?

Do đó cần bổ sung quy định bảo vệ quyền lợi người lao động, người thứ ba tham gia giao dịch với pháp nhân thương mại, khi pháp nhân thương mại phải chịu các hình phạt trên và các cơ quan tố tụng Trung ương cần sớm có những văn bản cụ thể về các quy định này để áp dụng thống nhất trong việc điều tra, truy tố, xét xử trong toàn quốc.

chuyen-gia.jpg
Ông Nagahashi Masanori, chuyên gia Nhật Bản

Ông Nagahashi Masanori, chuyên gia Nhật Bản cho biết, liên quan đến vấn đề này Nhật Bản cũng có hai quan điểm là phủ định và đồng tình. Trên thực tế, BLHS của Nhật Bản không có quy định nào về xử phạt hình sự pháp nhân thương mại phạm tội, tuy nhiên trong các luật chuyên ngành lại có các quy định về việc xử phạt này. Tức là tội phạm này chỉ bị xử lý khi có các luật chuyên ngành quy định.

Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng đưa ra các căn cứ cụ thể để xử lý loại tội phạm này, theo đó, hành vi của người đại diện pháp nhân chính là hành vi của pháp nhân. Trường hợp nhân viên của pháp nhân có hành vi vi phạm, nếu hành vi phạm tội của một người được chứng minh, có thể giả định rằng đã có lỗi trong việc bổ nhiệm, giám sát và ngăn chặn vi phạm khác của pháp nhân. Do đó, trừ khi có thể chứng minh rằng pháp nhân đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để ngăn chặn vi phạm thì pháp nhân cũng sẽ bị xử phạt theo quy định song phạt (xử phạt cả người có hành vi phạm tội và pháp nhân).

Trường hợp một pháp nhân quản lý một pháp nhân khác mà pháp nhân khác phạm tội thì pháp nhân quản lý sẽ không bị truy cứu, trừ trường hợp pháp nhân quản lý xúi giục, giúp đỡ..

Thực tế các vụ án hình sự pháp nhân thương mại phạm tội tại Nhật Bản được chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn điều tra và truy tố; giai đoạn xét xử; hình phạt.

Giai đoạn điều tra về truy tố, về cơ bản không có sự khác biệt về mặt thủ tục so với trường hợp của thể nhân; Người thực hiện hành vi phạm tội thực tế (nhân viên, người đại diện..) và pháp nhân bị khởi tố với tư cách là những nghi phạm riêng biệt; nếu bản thân người đại diện không phải là nghi phạm, người đại diện không thể bị giam giữ; Không nhất thiết phải truy tố cả người thực hiện hành vi lẫn pháp nhân, có thể chỉ truy tố một bên; Trong trường hợp truy tố cả hai, việc truy tố thường được yêu cầu bởi 1 bản cáo trạng.

Giai đoạn xét xử: Người đại diện của pháp nhân có mặt, đại diện tham gia tố tụng; Ngoài người đại diện, có thể yêu cầu người thay mặt đại diện tham dự; Người đại diện hiện tại phải có mặt; Khi pháp nhân không còn tồn tại, việc truy tố phải được hủy bỏ bằng một quyết định (việc xét xử kết thúc).

Còn về nội dung hình phạt: Hình phạt chính là hình phạt về tài sản như phạt tiền (về nguyên tắc có giới hạn tối đa); Tịch thu, trưng thu với tư cách là hình phạt bổ sung (dựa trên mệnh lệnh bảo toàn tịch thu); Ra lệnh xử lý hành chính mà không phải hình phạt.

Tại hội thảo, các đại biểu tham dự cũng đã đặt ra nhiều câu hỏi để thảo luận.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, xử lý thế nào?