Trong hai ngày 17, 18/11, TAND TP Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Lê Thị Mây (SN 1986, trú P.Hòa Cường Bắc, Q.Hải Châu, TP Đà Nẵng) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Theo hồ sơ, Công ty CP Vietnet Investment Group do ông Đỗ Hữu Dũng (trú thôn Thái Lai, xã Hòa Nhơn, H. Hòa Vang làm Giám đốc), tuy nhiên mọi hoạt động đều do vợ chồng bà .T.N.L và ông V.C.Q. (cùng trú ở Q. Hải Châu, TP Đà Nẵng) điều hành.
Khoảng tháng 2/2019 đến tháng 5/2019, Công ty CP Vietnet Investment Group có nhu cầu tham gia đầu tư vào các Dự án xử lý rác thải TP Đà Nẵng, Dự án Nhà máy xử lý rác thải tỉnh Quảng Nam và Dự án khu dân cư phía Nam thị trấn Nam Phước (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), thông qua sự giới thiệu của ông Đỗ Hữu Dũng, vợ chồng bà L. gặp Lê Thị Mây để liên hệ hỏi về việc xin giấy phép đầu tư.
Qua tiếp xúc, Mây lấy tên giả là Trần Thu Hà và đưa thông tin gian dối có nhiều mối quan hệ quen biết, có khả năng xin được giấy phép đầu tư các dự án cho Công ty của bà Lan trong thời gian từ 1 đến 3 tháng.
Để bà L. tin tưởng, Mây liên hệ với anh Nguyễn Nam Phước (trú tổ 33, P. Mỹ An, Q. Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng) và anh Nguyễn Văn Ánh (trú tổ 58, P. Hòa Khánh Nam, Q. Liên Chiều, TP Đà Nẵng) đều là nhân viên Công ty TNHH tư vấn xây dựng miền Trung để nhờ hỏi thủ tục và làm hồ sơ báo cáo công nghệ để được UBND TP Đà Nẵng và UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức các buổi thuyết trình giới thiệu về công nghệ xử lý rác thải và báo cáo sơ bộ các nội dung liên quan đến dự định đầu tư.
Sau các buổi thuyết trình này, Mây không làm các thủ tục cần thiết theo hướng dẫn của cơ quan chức năng để được cấp phép đầu tư theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định nhưng Mây liên tục đưa ra các thông tin gian dối để bà L. tin tưởng và qua đó nhiều lần yêu cầu bà L. đưa tiền làm chi phí rồi chiếm đoạt.
Cụ thể, sau khi hứa hẹn xin được giấy phép cho Công ty CP Vietnet Investment Oroup đầu tư vào Dự án nhà máy xử lý xác thải TP Đà Nẵng, ngày 28/2/2019, Mây yêu cầu bà L. đưa trước 150.000 USD. Vợ chồng bà L. và anh Dũng đến giao tiền tại nhà Mây tại số 11 đường Bằng Lăng 1, P. An Hải Tây, Q. Sơn Trà, TP Đà Nẵng.
Qua xác minh, tại Báo cáo số 2975/BHTPTĐI-KH ngày 2/12/2012, trong đó có 21 Nhà đầu tư nộp hồ sơ đề xuất nhưng không có hồ sơ đề xuất của Công ty CP Vietnet Investment Group. Trên thực tế, sau buổi thuyết trình, Mây không làm bất cứ thủ tục gì theo đúng các yêu cầu về trình tự, thủ tục của UBND TP Đà Nẵng hướng dẫn để được xem xét cấp giấy phép đầu tư cả.
Khoảng tháng 5/2019, trong quá trình chờ Mây hoàn thành thủ tục xin giấy phép đầu tư Dự án nhà máy xử lý rác thải tại Đà Nẵng, bà L. trao đổi việc Công ty cũng có nhu cầu đầu tư dự án Nhà máy xử lý rác tỉnh Quảng Nam và xin giấy phép đầu tư khu dân cư phía Nam thị trấn Nam Phước. Mây hứa hẹn sẽ xin được giấy phép hai dự án này trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 tháng.
Để tạo niềm tin cho bà L., Mây tiếp tục yêu cầu bà L. cung cấp thông tin để làm hồ sơ, báo cáo thuyết trình công nghệ gồm Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty CP Victnet Investment Group, Hợp đồng nguyên tắc giữa Công ty CP Vietnet Investment Group và đối tác, báo cáo công nghệ xử lý rác thải. Sau khi Mây nộp hồ sơ thì được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam tổ chức buổi họp để nghe giới thiệu về công nghệ xử lý rác thải và báo cáo sơ bộ các nội dung liên quan đến dự định đầu tư Nhà máy đốt chất thải rắn đô thị phát điện tại tỉnh Quảng Nam.
Đáng nói, sau buổi thuyết trình, Mây lại tiếp tục chiêu cũ “án binh bất động”, không làm bất cứ việc gì để xin Giấy phép cho Công ty CP Vietnet Investment Group theo hướng dẫn của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam để được tham gia đầu tư dự án.
Cùng thời gian này, Mây liên hệ với anh Nguyễn Văn Ánh nhờ làm hồ sơ giới thiệu về công nghệ nhà máy xử lý rác thải Quảng Nam và lập hồ sơ quy hoạch tỷ lệ 1/500 đối với dự án khu dân cư phía Nam thị trấn Nam Phước.
Để tạo sự tin tưởng cho bà L, Mây giới thiệu để Công ty CP Vietnet Investment Group và Công ty TNHH tư vấn xây dựng miền Trung ký kết hợp đồng tư vấn thiết kế xây dựng công trình thuộc dự án khu đô thị phía Nam thị trấn Nam Phước.
Sau khi ký hợp đồng thì ông Q. chuyển cho anh Ánh tiền tạm ứng hơn 383 triệu đồng. Anh Ánh lập hồ sơ giao cho Mây. Sau khi Mây nhiều lần hứa hẹn nhưng không nhận được giấy phép đầu tư dự án, bà L. yêu cầu dừng hợp tác thì anh Ánh và bà L. lập thỏa thuận trả lại 75% số tiền tạm ứng, anh Ánh đã chuyển trả lại số tiền hơn 287 triệu đồng…
Mặc dù không có khả năng xin cấp giấy phép đầu tư cho các Dự án xử lý rác thải TP Đà Nẵng, Dự án Nhà máy xử lý rác thải tỉnh Quảng Nam và Dự án khu dân cư phía Nam thị trấn Nam Phước nhưng Mây đưa ra thông tin gian dối có mối quan hệ quen biết, có khả năng xin giấy phép trong vòng 1-3 tháng, sắp có giấy phép đầu tư hoặc đã có giấy phép đầu tư nhưng chưa đóng dấu… để bà L. tin tưởng giao tổng số tiền 860.000 USD tương đương 19.806.690.000 đồng, rồi chiếm đoạt.
Khi bị bà L. phát hiện và qua nhiều lần hai bên làm việc, Mây đã trả lại cho bà L. số tiền 50 ngàn USD và 513.930.000 đồng. Bà L. yêu cầu Mây tiếp tục trả hết số tiền còn lại.
Tại tòa, Mây cho rằng một số nội dung cáo trạng không đúng với thực tế của sự việc. Cụ thể, bị cáo không phải là người chủ động đề xuất bà L. đưa tiền; giữa bà L. và bị cáo không có sự bàn bạc nào trước mà chính bà L. là người đưa ra đề nghị, nhờ bị cáo “tìm đường” để tham gia vào các dự án.
Bị cáo khẳng định, không dùng tiền của bị hại để sử dụng vào mục đích cá nhân. Bị cáo cũng cho rằng, tất cả số tiền bà L. đưa, chi vào những gì, chi vào đâu đều được sự đồng ý của bà L. Vì vậy, đối với số tiền còn lại, bị cáo sai ở đâu thì hoàn trả lại đến đó, một số tiền thực chi cho công việc bị cáo không thể bồi hoàn.
Để làm rõ về số tiền mà bị cáo cho rằng “thực chi cho công việc”, bị hại đề nghị chứng minh, tuy nhiên bị cáo không chứng minh được.
Sau hai ngày xét xử, ngày 18/11 HĐXX TAND TP Đà Nẵng tuyên phạt Lê Thị Mây án Chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, buộc bị cáo tiếp tục trả cho bị hại số tiền còn lại.