Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2016 và Nghị quyết về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV.
Sau đây là nội dung 2 Nghị quyết:
Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2016
Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 58/2018/QH14 về phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2016.
Nghị quyết nêu rõ Tổng số thu cân đối ngân sách Nhà nước là 1.407.572 tỷ đồng (một triệu, bốn trăm linh bảy nghìn, năm trăm bảy mươi hai tỷ đồng), bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2015 sang năm 2016, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2015, thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương và thu từ quỹ dự trữ tài chính theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
Tổng số chi cân đối ngân sách Nhà nước là 1.574.448 tỷ đồng (một triệu, năm trăm bảy mươi tư nghìn, bốn trăm bốn mươi tám tỷ đồng), bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2016 sang năm 2017.
Bội chi ngân sách Nhà nước là 248.728 tỷ đồng (hai trăm bốn mươi tám nghìn, bảy trăm hai mươi tám tỷ đồng), bằng 5,52% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Nguồn bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước gồm: Vay trong nước 197.165 tỷ đồng (một trăm chín mươi bảy nghìn, một trăm sáu mươi lăm tỷ đồng); vay ngoài nước 51.563 tỷ đồng (năm mươi mốt nghìn, năm trăm sáu mươi ba tỷ đồng).
Quốc hội giao Chính phủ công khai quyết toán ngân sách nhà nước năm 2016 theo đúng quy định của pháp luật; Chỉ đạo các cơ quan trung ương, địa phương, đơn vị kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế và nghiên cứu, thực hiện các đề xuất được nêu trong Báo cáo thẩm tra số 1024/BC-UBTCNS14 ngày 18 tháng 5 năm 2018 của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước và ý kiến của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV về quyết toán ngân sách nhà nước năm 2016; chỉ đạo các bộ, cơ quan Trung ương, Ủy ban nhân dân các cấp khẩn trương rà soát, phê duyệt quyết toán các dự án sử dụng vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước đã hoàn thành; có biện pháp khẩn trương chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư công.
Quốc hội yêu cầu khắc phục triệt để, không để tiếp diễn tình trạng tồn đọng các dự án đầu tư công đã hoàn thành nhưng chậm phê duyệt quyết toán; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân các cấp trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về phê chuẩn báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước của cấp mình theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
Quốc hội yêu cầu kiểm điểm trách nhiệm, xử lý nghiêm, kịp thời các tổ chức, cá nhân vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước và báo cáo cụ thể với Quốc hội về danh sách, mức độ sai phạm, hình thức xử lý, kết quả xử lý vi phạm trong việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước năm 2016 khi trình Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2017.
Nghị quyết về hoạt động chất vấn
Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 63/2018/QH14 về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV.
Nghị quyết nêu rõ Quốc hội ghi nhận các giải pháp, cam kết của Chính phủ, Bộ trưởng các Bộ: Giao thông Vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Lao động-Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ tập trung thực hiện những cam kết, các giải pháp đồng bộ để khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được chất vấn tại Kỳ họp này, báo cáo Quốc hội tại các kỳ họp tiếp theo.
Đối với lĩnh vực giao thông vận tải, lãnh đạo ngành cần rà soát, đánh giá tổng thể thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, quy hoạch giao thông; chấn chỉnh hoạt động vận tải đường sắt, có phương án đầu tư phát triển vận tải đường sắt bảo đảm an toàn, hiệu quả; trình Quốc hội cho ý kiến về phương án đầu tư hệ thống đường sắt tốc độ cao tuyến Bắc-Nam vào năm 2019, từ đó, thu hút mạnh nguồn lực của các thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông; trong đó ưu tiên cho các công trình lớn, quan trọng, thiết yếu; tăng cường kết nối giữa các loại hình vận tải, giữa các trung tâm kinh tế lớn, giữa các vùng, nhất là các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và Nhân dân.
Bên cạnh đó, Bộ Giao thông Vận tải hoàn thành các công trình giao thông trọng điểm theo đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, an toàn, hạn chế ảnh hưởng đến đời sống nhân dân; xác định rõ trách nhiệm và có hình thức xử lý thích hợp đối với các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc kéo dài tiến độ, tăng vốn dự án, nhất là các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ giao cho Bộ Giao thông Vận tải và địa phương quản lý.
Bộ Giao thông Vận tải thực hiện các giải pháp, biện pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, tiếp tục giảm tai nạn giao thông ở cả 3 tiêu chí (số vụ, số người chết, số người bị thương) qua từng năm, đặc biệt là các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng; tập trung xử lý các điểm đen về an toàn giao thông, các điểm giao cắt đường sắt với đường bộ, không để phát sinh các lối đi tự mở qua đường sắt; tăng cường kỷ cương trong bảo đảm an toàn vận tải đường sắt; tập trung lập lại trật tự giao thông đô thị, có giải pháp xử lý căn bản tình trạng ùn tắc tại các thành phố lớn, tuyến đường trọng điểm, huyết mạch; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát phương tiện giao thông, chấp hành pháp luật về giao thông, bảo vệ hành lang an toàn đường bộ, đường sắt, công tác đăng kiểm, đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép điều khiển phương tiện và xử lý nghiêm các vi phạm trong lĩnh vực này; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật giao thông; xây dựng đề án cụ thể về văn hóa tham gia giao thông; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành giao thông.
Về các dự án BOT, Bộ Giao thông Vận tải tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT; hoàn thiện pháp luật về đầu tư dự án kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp đồng BOT đặt trong tổng thể hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (PPP); rà soát toàn bộ hệ thống trạm thu phí BOT giao thông và sớm xử lý dứt điểm tồn tại, bất cập, vướng mắc trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích của người dân, Nhà nước và nhà đầu tư; đẩy mạnh kết nối hệ thống thông tin, dữ liệu về thu phí; từ năm 2019, thực hiện việc thu phí tự động không dừng tại tất cả các trạm thu phí BOT giao thông; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; xử lý nghiêm minh các vi phạm trong lĩnh vực này.
Đối với lĩnh vực tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần rà soát, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình thực thi pháp luật về đất đai; tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, quản lý về đất đai trên phạm vi cả nước, nhất là việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đất dùng cho mục đích công cộng, đất tại các nông, lâm trường, dự án BT, BOT; xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai, gây bức xúc trong Nhân dân; kiên quyết xử lý, thu hồi theo quy định của pháp luật đối với đất để hoang hóa, lãng phí, chậm đưa vào sử dụng; chấn chỉnh việc sử dụng, quản lý đất ven sông, ven biển; triển khai có hiệu quả các giải pháp hạn chế tình trạng đầu cơ đất đai, tránh gây tác động tiêu cực tới thị trường bất động sản, đặc biệt là tại các khu vực có quy hoạch dự án trọng điểm.
Bên cạnh đó, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai, đẩy nhanh việc xây dựng và ứng dụng cơ sở dữ liệu đất đai; sớm hoàn thành phương pháp xác định giá đất phù hợp với thực tế thị trường bất động sản; giải quyết kịp thời, dứt điểm các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp, khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài liên quan đến đất đai, tạo chuyển biến rõ nét về lĩnh vực này qua từng năm.
Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát, sửa đổi, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường; triển khai thực hiện chương trình quan trắc và cảnh báo môi trường, nhất là tại các thành phố lớn, vùng kinh tế trọng điểm, khu tập trung nhiều nguồn thải và khu vực nhạy cảm về môi trường, không để xảy ra các sự cố nghiêm trọng về môi trường; triển khai quy hoạch xử lý rác thải; xây dựng và triển khai mô hình mẫu về xử lý rác thải, nhất là tại vùng nông thôn; hướng dẫn thực hiện tốt phân loại rác tại nguồn; tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; ưu tiên bố trí và sử dụng có hiệu quả kinh phí triển khai thực hiện những dự án cấp thiết, đặc biệt là các dự án chống sạt lở bờ biển, bờ sông.
Năm 2018, khắc phục cơ bản các điểm sạt lở bờ biển, bờ sông đặc biệt nguy hiểm. Quản lý chặt chẽ, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông, suối trái pháp luật....
Đối với lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội, cơ quan chức năng cần rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về lao động, giáo dục nghề nghiệp, việc làm trong nước và người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; thúc đẩy phát triển thị trường lao động, gắn với cung, cầu lao động và bối cảnh nền công nghiệp 4.0; làm tốt công tác dự báo thị trường lao động; có lộ trình cụ thể giải quyết việc làm cho sinh viên, thanh niên nông thôn; thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích thanh niên, sinh viên khởi nghiệp sáng tạo...
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tiếp tục rà soát, sắp xếp và hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm phân bố hợp lý giữa các vùng, miền, ngành nghề, trình độ đào tạo; bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, đến năm 2021 giảm 10% cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập; xử lý tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đào tạo chung; rà soát, đánh giá tổng thể, thực hiện các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển thị trường bền vững đối với hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng...
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, cơ quan chuyên môn cần rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo, nhất là chính sách đối với các đối tượng ở vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; hoàn thành đề án cụ thể về quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và đào tạo giáo viên; tích cực chuẩn bị và triển khai thực hiện chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo Nghị quyết của Quốc hội; đẩy mạnh việc hướng dẫn nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ em tại gia đình và các nhóm trẻ độc lập, tư thục; làm tốt công tác dự báo, quy hoạch, phát triển trường mầm non, nhất là ở các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu vực đông dân cư; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non; quản lý chặt chẽ việc cấp phép, tiêu chuẩn, điều kiện hoạt động và hoạt động đối với giáo dục mầm non....
Bộ Giáo dục và Đào tạo rà soát, hoàn thiện tiêu chuẩn nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên theo bậc học, cấp học; tăng cường quản lý, sắp xếp, đánh giá đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý theo tiêu chuẩn nghề nghiệp; rà soát công tác quản lý biên chế, tuyển dụng giáo viên; nâng cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục; phát huy dân chủ, thực hiện nền nếp, kỷ cương trường học, làm tốt công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, rèn luyện thể chất cho học sinh; tăng cường an ninh, an toàn trong trường học; trong năm 2018, ban hành đề án về văn hóa ứng xử trong trường học...