Đúng 100 năm (1921- 2021) đã qua, Nam tước, Đại thần, Cơ mật viện, Thượng thư Bộ Công kiêm Bộ Binh kiêm Quản Đô sát viện Đoàn Đình Duyệt rời chốn quan trường bởi một vụ án sau gần 40 năm ông làm việc, làm quan trải qua 4 triều vua nhà Nguyễn: Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân và Khải Định.
Bằng những tư liệu lịch sử, các nhà nghiên cứu sử học và hậu duệ của ông đã làm sáng tỏ cuộc đời, sự nghiệp của một vị đại quan “văn võ toàn tài”, đức độ, yêu nước, thương dân, có nhiều công lao đóng góp với đất nước, quê hương.
Tiểu sử, sự nghiệp
Đoàn Đình Duyệt (1862- 1929) còn có tên là Đoàn Đình Nhàn, hiệu là Đức Khê, tên thụy là Văn Ý sinh năm 1862 trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Đào Lãng, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Đào Lạng, xã Văn Hội, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Ngay từ nhỏ, Đoàn Đình Duyệt đã bộc lộ tư chất thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát, chăm chỉ. Cha mất sớm, phải ở với bác ruột, chăn trâu, cắt cỏ, tham gia công việc đồng áng, một lần, để trâu ăn lúa, cậu bé Duyệt bị đánh đòn, đành bỏ nhà ra đi, vào Bến Trại (nay thuộc xã Tiền Phong, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương) rồi lên thuyền đi theo dòng sông Luộc. Sau này Đoàn Đình Duyệt gặp được người tốt đón về nuôi, cho ăn học đến khi trưởng thành.
Vào năm thứ Nhất Triều đại Đồng Khánh (1885), ông Đoàn Đình Duyệt bắt đầu sự nghiệp hành chính, vào ngạch Nhà nước tại chính quyền tỉnh Nghệ An, ba năm sau lên chức Kinh lịch, hết thời gian tập sự, được giao chức Tri huyện và Tri phủ.
Tháng 10 năm Quý Mão - 1903, ông Đoàn Đình Duyệt làm Thương biện tỉnh Nghệ An sung Đốc biện đường bộ; Tháng 12 năm Đinh Mùi - 1908 làm Bố Chánh tỉnh Nghệ An. Tháng 10 năm Canh Tuất - 1910 từ Thự Tổng đốc Lãnh Tuần phủ Quảng Ngãi, được thăng quyền Lãnh Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay). Tháng 6 năm Ất Mão - 1915 được thăng chức Tổng đốc Bình Phú (Bình Định và Phú Yên ngày nay).
Sau 31 năm làm việc với các chức vụ nói trên tại địa phương, năm Duy Tân thứ 10, tháng 2 Bính Thìn – 1916, ông Đoàn Đình Duyệt được điều về Huế thăng chức Thự Hiệp tá Đại học sĩ, lãnh Thượng thư Bộ Hộ (Bộ Tài chính), sung Phụ chánh Đại thần.
Đến tháng 4 năm Bính Thìn - 1916, vua Duy Tân bị phế, vua Khải Định lên ngôi đã lớn tuổi nên không cần Phủ Phụ Chánh, ông Đoàn Đình Duyệt giữ chức Thượng thư Bộ Hộ, đến tháng 8 thì sung Cơ mật Viện Đại thần, tấn phong tước Ninh Lãng Nam.
Tháng 2 nhuận năm Đinh Tỵ - 1917 ông Đoàn Đình Duyệt được thăng chức Hiệp tá Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Công, kiêm bộ Binh, kiêm Quản Đô sát viện, vẫn sung Cơ mật viện Đại thần.
Tháng 7 năm Tân Dậu ( tức tháng 8 năm 1921 ông bị giáng 2 cấp bậc ( xuống Tuần phủ), thu hồi tước Nam và cho về hưu vì phạm tội.
Đến năm Khải Định thứ 9, tháng 9 năm Giáp Tý, nhân dịp Tứ tuần Đại khánh của vua Khải Định ( tháng 9/1924) ông Đoàn Đình Duyệt đã được khai phục chức tước cũ ( Hiệp tá Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Công, Ninh Lãng Nam) đồng nghĩa với việc được tăng mức hưu bổng.
Những đóng góp tiêu biểu với đất nước và quê hương Hải Dương
Nói về những đóng góp của ông Đoàn Đình Duyệt đối với đất nước, trong lời dụ của vua Khải Định, tháng 8, năm Bính Thìn (1916) đã khen ngợi ông khi còn làm quan ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên: “ Ngày trước nhậm chức ở Hoan Châu (chỉ đất Nghệ An) có nhiều tiếng tốt… Lúc chuyển trông coi các trấn Nghĩa Định (Quảng Ngãi - Bình Định) cũng lập được nhiều chính tích. Công lao và tài năng ấy thực đáng khen thưởng.
Trong thời gian làm quan triều đình tại Huế, Nam tước, Đại thần Đoàn Đoàn Đình Duyệt có nhiều đề xuất với nhà vua trong việc thực thi các chính sách nhằm phát triển kinh tế, xã hội đất nước thời bấy giờ, tiêu biểu: “…Điều trần về việc thân định giáo điều, chỉnh sửa phong tục; Mua gạo để đề phòng chẩn tế cứu đói cho dân; Tâu trình về việc trù tính chẩn cấp cứu đói cho dân Thanh Hóa; Mối lợi khi mở một đường sông để tránh được nỗi khổ cho dân không bị hạn hán bởi thiếu nước ở Nghệ An; Tâu xin về việc giá gạo ở Bắc kỳ rất rẻ vì thiếu tiền, kiến nghị xin đúc thêm tiền đồng để gia tăng việc mậu dịch; Tâu xin đặt trường giảng dạy, nghiên cứu thuốc Nam, theo ông: “ Cũng nên tự ta trồng trọt, thí nghiệm dược phẩm thì lâu ngày có thể tinh tường”.
Với quê hương Hải Dương: Ông cho tiền, thuê thợ làm “đường chân tre” để chống úng lụt, cho đặt guồng nước có ngựa kéo để chống hạn trên cánh đồng Ba Tổng; Xây dựng cống Cổ ngựa tại Văn Giang, xã Văn hội; Xây dựng đình, chùa tại thôn Đào Lạng, xã Văn Hội. Đặc biệt, ông bỏ công sức, tiền của xây dựng và trùng tu lại các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng như: Đền Tranh ( xã Đồng Tâm), Chùa Trông (xã Hưng Long) thuộc huyện Ninh Giang và Đàn Thiện xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện. Cả ba di tích này đã được Nhà nước ta xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia từ lâu, đã và đang phát huy giá trị rất tích cực trong đời sống văn hóa của nhân dân địa phương.
Vụ án Đoàn Đình Duyệt
Năm Khải Định thứ 6, tháng 7 năm Tân Dậu ( tháng 8/1921) có người dâng một cuốn sách của Hiệp sĩ Trung Hoa Lương Khải Siêu, dòng chữ nhan đề ở ngoài bìa trông giống với nét chữ của Ty thuộc (một chức quan) Bộ Công là Phan Như Đào thủ hạ của ông Đoàn Đình Duyệt (đang làm Thượng thư Bộ Công), vua mật cho lục soát nhà của tên Đào. Đoàn Đình Duyệt ngầm sai thuộc viên mở tủ của tên Đào đặt trong bộ để hủy hết giấy tờ của Y, sự việc bị phát giác.Trong khi điều tra lại bắt được Ưng Thiệu mang yêu thư (sách của Lương Khải Siêu) trong người, y khai do Đoàn Đình Duyệt thuê với thù lao 1.000 đồng.
Khi đối chất, mặc dù Đoàn Đình Duyệt kiên quyết không nhận, nhưng chiếu theo nhân chứng ông bị đề nghị phạt đòn 100 trượng và đồ ( lao động khổ sai) 3 năm.
Bản án được trình lên vua Khải Định duyệt. Vua nghĩ, muốn giữ thể diện cho ông là vị quan Đại thần quê ở Bắc Kỳ nên chỉ xử ông bị hạ 2 cấp, thu hồi tước phong (Ninh Lãng Nam) cho về hưu với hàm Tuần phủ và được giữ các Bội tinh, Kim khánh, Kim tiền đã được tặng thưởng trước đó.
Đến năm Khải Định thứ 9 tháng 6 năm Giáp Tý, nhân dịp Tứ Tuần Đại Khánh của vua Khải Định ( tháng 9/1924); ông Đoàn Đình Duyệt đã được khai phục chức tước cũ (Hiệp tá Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Công, Ninh Lãng Nam), đồng nghĩa với việc ông được tăng mức hưu bổng căn cứ theo lời phê của vua Khải Định ba năm trước đó khi ông bị cho về hưu vì phạm lỗi.
Những nhận định, đánh giá xưa và nay
Trải qua gần 40 năm làm việc, làm quan, ông Đoàn Đình Duyệt đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp khi đương thời và cho hậu thế. Tại sắc phong tước Linh Lãng Nam ngày 2 tháng 8 niên hiệu Khải Định thứ Nhất 1916, nhà vua đã viết:“… Từ thời thanh niên, vị Đại quan này đã tỏ ra một ý chí lạ thường. Ngoài ra vị này còn có một thiên tài đặc biệt là sự lanh trí trong mọi tình huống”; “ Ở nhiệm sở Án sát, cũng như ở tất cả các nhiệm sở khác đã được phân công dù trong hoàn cảnh khó khăn đến đâu, vị này cũng có khả năng để hoàn thành nhiệm vụ mà người ta yêu cầu. Luôn luôn vị này tỏ ra một con người giá trị và như thế đáng được nhiều khen ngợi xứng đáng”;“Chúng ta khâm phục các công lao mà vị này đã cống hiến trong việc cai trị các tỉnh, và chúng ta vẫn còn nhớ những gì mà vị này đã làm để phát triển nông nghiệp và với trí tuệ sáng suốt tuyệt vời đã khích lệ được người dân tham gia phát triển”.“ Trẫm xin tuyên bố, hỡi vị Thượng thư thân mến, một người giá trị như khanh nghĩa là văn võ toàn tài thì phải được kính trọng trong các tỉnh và ở tại triều đình…”.
Nhà văn, nhà báo, Nhà nghiên cứu Sử học Nguyễn Đắc Xuân (Huế) trong thư đề ngày 29/12/2016 gửi gia đình hậu duệ Đại thần Đoàn Đình Duyệt nêu cảm nghĩ:“Tôi rất vui mừng đọc được đề mục năm Khải Định thứ 6 (1921)” Ninh Lãng Nam Đoàn Đình Duyệt “mắc tội”. Tội của cụ không phải dính vào tham nhũng hay phản quốc mà vì tội liên quan đến duy tân, cách mạng… tôi cho cụ “ mắc tội” đây là một di sản tinh thần vô giá của vị Đại thần triều Nguyễn để lại cho con cháu. Và qua đó cũng thấy được vua KhảiĐịnh đối với Đoàn Đình Duyệt như thế nào, nhân cách, tư cách cao quý của cụ Đoàn như thế nào”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Biểu công tác tại Viên Sử học, thuộc việt Hàn lâm KHXH Việt Nam nhận định về vụ án: “Đây là vụ án mà Hiệp tá Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Công kiêm Bộ Binh, kiêm Quản đô sát viện Đoàn Đình Duyệt bị khép vào tội “ tạo yêu thư yêu ngôn”, chứ không phải mắc vào tội tham nhũng hay phản quốc. Đó là tội liên quan đến duy tân, cách mạng mà cả triều Nguyễn lẫn thực dân Pháp đều lo sợ, bằng chứng là năm 1916 ông vua yêu nước Duy Tân đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục Hội hòng chống lại sự“bảo hộ” của Pháp…”.
Nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Hải Dương nêu ý kiến đề dẫn tại Hội thảo:“…Không phải ngẫu nhiên một cậu bé xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, phải tha phương kiếm sống trở thành một quan Thượng thư đại tài, văn võ song toàn, từng đảm nhiệm chức Thượng thư tới ba bộ, rồi Đại thần của Viện Cơ mật, Chánh nhất phẩm của triều Nguyễn. Trong tiểu sử và sự nghiệp của ông vẫn còn nhiều khoảng trống. Hội thảo khoa học nhằm làm rõ tiểu sử cũng như cống hiến của nhân vật lịch sử đặc biệt này” .
Thay mặt Bảo tàng tỉnh Hải Dương, Phó Giám đốc Nguyễn Thị Huê phát biểu:“…Với tấm lòng nhân hậu, yêu nước, thương dân, luôn hướng về quê hương và có những đóng góp thiết thực đối với Ninh Giang nói riêng và Hải Dương nói chung; Thượng thư Đoàn Đình Duyệt đã trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ đời sau noi theo…”.
Trong cuốn “ Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Văn Hội 1930- 2011” xuất bản năm 2011, tại trang 23 cho biết:“…Nhờ có sự quan tâm của dân làng, đã có không ít con em địa phương vượt khó, học giỏi, thành đạt bằng con đường khoa bảng, trở thành những vị quan nổi tiếng tài năng, đức độ. Tiêu biểu là cụ Thượng Đoàn, người làng Đào Lạng - Là một vị quan tứ trụ trong triều đình Nhà Nguyễn…”.
Trả lời phỏng vấn của phóng viên Đài Truyền hình Hải Dương, Phó Giáo sư,
Tiến sĩ Nghiêm Đình Vỳ, Chủ tịch Hội Giáo dục Lịch sử (thuộc Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) đánh giá:“ …Các báo cáo trình bày tại Hội thảo khoa học đã nói lên được công lao, đức độ của vị đại quan này đối với đất nước và quê hương là rất lớn. Tôi đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo cùng với các ngành chức năng của tỉnh Hải Dương cần có kế hoạch xây dựng kế hoạch, soạn thảo những tài liệu tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp quan Đại thần Đoàn Đình Duyệt để đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường phổ thông bởi, Chương trình giáo dục phổ thông mới giảng dạy môn Lịch sử được sắp xếp: Dạy lịch sử Việt Nam; Lịch sử địa phương và Lịch sử thế giới…”.
Những đóng góp của Nam tước, đại thần Đoàn Đình Duyệt với đất nước và quê hương đang được các nhà khoa học lịch sử và các thế hệ hậu duệ của ông tiếp tục làm sáng tỏ. Trước Tết Nguyên đán Canh Tý 2020, một đường phố tại thành phố Hải Dương đã được gắn biển mang tên Đoàn Đình Duyệt, điều đó thể hiện tình cảm và sự tri ân của chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương quê hương ông đối với một vị đại quan tài năng và đức độ dưới triều nhà Nguyễn .