Báo Công lý xin giới thiệu tham luận của Tòa Hình sự TANDTC về việc xây dựng các quy định của BLTTHS về thẩm quyền của Tòa án trong việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ tại Hội nghị Triển khai công tác Tòa án năm 2015.
LTS: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-6-2015, quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, đặc biệt tại khoản 3 Điều 2 Luật Tổ chức TAND quy định khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ; yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa v.v.... Để làm được điều đó thì một trong những nhiệm vụ quan trọng của Tòa án là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý đề xuất xây dựng thể chế để Tòa án thực hiện chức năng này. Báo Công lý xin giới thiệu tham luận của Tòa Hình sự TANDTC xung quanh vấn đề trên…
I. Cơ sở của việc xây dựng các quy định Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền của Tòa án trong việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ
Theo khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; khoản 1, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp; Kết luận số 92-KL/TW ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị cũng đặt ra yêu cầu: “nghiên cứu, xác định rõ nội hàm quyền tư pháp; xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp”. Vì vậy, cần phải cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, xây dựng một thể chế quy định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, tạo cơ sở pháp lý cho TAND thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật Tổ chức TAND được thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII ngày 24-11-2014, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-6-2015, tại Điều 2 cũng quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” và tại khoản 3 Điều 2 Luật Tổ chức TAND quy định: “Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền:
a) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;
b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp;
c) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
d) Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm;
e) Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”.
Như vậy, theo các quy định nêu trên, khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ; yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa. Đây là những điểm mới về thẩm quyền của Tòa án trong việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; đồng thời quy định của pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay là theo hệ tố tụng thẩm vấn, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác dịnh có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Do đó, để đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của TAND theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức TAND thì một trong những nhiệm vụ quan trọng của Tòa án là phải hoàn thiện cơ sở pháp lý, đề xuất xây dựng thể chế để Tòa án thực hiện chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp và như vậy, pháp luật tố tụng cần thiết phải sửa đổi, bổ sung để TAND bảo vệ công lý.
II. Thực trạng thẩm quyền của Tòa án trong việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua cho thấy, thẩm quyền của Tòa án trong việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 còn có nhiều hạn chế, chưa mở rộng quyền hạn và tạo điều kiện cho Tòa án được quyết định một số vấn đề trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Điều 10. Xác định sự thật của vụ án, quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng”. Đó là 3 cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án.
Thứ hai, Điều 35. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên là lập hồ sơ vụ án hình sự... Cũng vì mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án nên việc xét xử của Tòa án là sự tiếp tục điều tra. Thông qua việc tranh tụng và thẩm vấn công khai tại phiên tòa, những chứng cứ thu được là những cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định có hành vi phạm tội hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm tình sự...
Thứ ba, Điều 64. Chứng cứ, quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội…”.
Thứ tư, Điều 65. Thu thập chứng cứ, quy định: “1. Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án…”.
Thứ năm, Điều 104. Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quy định: “1. Khi xác định có dấu hiêu tội phạm…Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong tường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần điều tra…3. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố…quyết định khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi tới Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc điều tra…”.
Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014, khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ
Các điều luật trên thể hiện Tòa án có quyền điều tra thu thập chứng cứ và khởi tố vụ án, thế nhưng, quy định ở các chương khác cũng như chương chuẩn bị xét xử, xét xử của Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung, yêu cầu điều tra bổ sung theo các điều 179, 199 Bộ luật Tố tụng hình sự, còn việc điều tra, thu thập chứng cứ của Tòa án là tại phiên tòa, Tòa án phải triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa để điều tra công khai. Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử cũng có quyền xem xét tại chỗ theo Điều 213: “Nếu xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm những người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến những nơi đó…”, dẫn đến thực trạng trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán và trong giai đoạn xét xử Hội đồng xét xử thấy cần phải điều tra bổ sung các chứng cứ quan trọng để xác định có tội hay không có tội hoặc cần khởi tố, truy tố thêm người phạm tội, thêm hành vi phạm tội, nhưng Viện kiểm sát không chấp nhận hoặc chỉ làm thêm một số vấn đề, còn một số vấn đề vẫn không đáp ứng yêu cầu của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử thì Tòa án vẫn phải tiến hành xét xử vụ án theo khoản 2 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự và Thẩm phán phải triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa.
Tuy nhiên, hiện nay việc triệu tập những người làm chứng, người biết những tình tiết liên quan đến vụ án là hết sức khó khăn, hầu hết những người được triệu tập không muốn liên lụy đến vụ án, có trường hợp do bị đe dọa, sợ bị trả thù, thậm chí bị mua chuộc; do nể nang là họ hàng, bạn bè, làng xóm thân thích; không có mặt tại địa phương và hầu hết là không muốn có mặt để khai báo ở phiên tòa; khi triệu tập không được, Thẩm phán ra lệnh áp giải thì hầu hết Công an lập biên bản và xác định họ đi làm ăn, gia đình không biết hiện ở đâu; có rất nhiều vụ án, tại phiên tòa, bị cáo cho rằng mình bị ép cung, buộc phải nhận tội, lời khai tại cơ quan điều tra mâu thuẫn với lời khai tại phiên tòa nhưng Hội đồng xét xử không làm rõ được có bị ép cung hay không nên gặp khó khăn trong việc đánh giá vụ án một cách khách quan, dễ dẫn đến bỏ lọt người phạm tội, làm oan người vô tội.
Vì vậy, Tòa án không thể điều tra làm rõ ở phiên tòa, các tài liệu, chứng cứ không được thẩm tra, việc xem xét tại chỗ cũng khó có thể thực hiện được, đặc biệt là đối với các vụ án bị cáo kêu oan và hậu quả là Tòa án có thể tuyên bị cáo không phạm tội, có thể sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị hại; nếu có kháng cáo, kháng nghị có thể vụ án bị hủy để điều tra lại làm cho vụ án bị kéo dài thời hạn tố tụng, nhiều năm không kết thúc, gây tốn kém tiền của Nhà nước và nhân dân; trong trường hợp Thẩm phán yêu cầu khởi tố thêm người phạm tội, thêm hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát không chấp nhận dẫn đến bỏ lọt tội phạm nếu cấp sơ thẩm không giải quyết thì cấp phúc thẩm có thể cũng không được giải quyết mà phải giải quyết ở cấp giám đốc thẩm, hủy án để điều tra xét xử lại cũng làm cho vụ án kéo dài hoặc trường hợp bị cáo kêu oan mà xét xử trên hồ sơ thì Hội đồng xét xử khó mà đánh giá được tính khách quan, toàn diện của vụ án.
Do đó, có thể nói Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chưa thể hiện sự kiểm soát giữa cơ quan thực hiện quyền tư pháp với cơ quan hoạt động tư pháp, Tòa án chỉ được yêu cầu mà không có quyền quyết định, không phù hợp với Hiến pháp mới và chủ trương của Đảng về kiểm soát quyền lực, không bảo đảm cho Tòa án thực hiện được quyền tư pháp và khó mà bảo vệ được công lý.
Qua thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành và xét xử của Tòa án, nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu trình Quốc hội các dự án sửa đổi Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND sửa đổi, chúng tôi đồng tình với ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Kết luận: để đảm bảo cho TAND thực hiện nhiệm vụ hiến định là bảo vệ công lý thì Tòa án phải kiểm soát toàn bộ quá trình tố tụng hình sự từ khi khởi tố cho đến khi tuyên án, theo đó Tòa án phải có quyền tự điều tra, tự kiểm tra, tự xem xét lại để từ đó phát hiện và khắc phục việc điều tra sai, truy tố sai (nếu có). Có như vậy mới bảo đảm để Tòa án thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xét xử, thực hiện quyền tư pháp đã được Hiến pháp 2013 ghi nhận.
Căn cứ vào Kết luận của Chủ tịch Quốc hội, Luật Tổ chức TAND sửa đổi và những khiếm khuyết của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, để Tòa án kiểm tra được chứng cứ vụ án trước khi xét xử thì sau khi đã yêu cầu điều tra bổ sung mà chưa đáp ứng được yêu cầu điều tra bổ sung thì khi nhận lại hồ sơ để xét xử, Tòa án có quyền chủ động xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ và có quyền khởi tố vụ án nếu có dấu hiệu của tội phạm sau đó chuyển hồ sơ cho Cơ quan đều tra để điều tra, Viện kiểm sát truy tố trước Tòa án là hết sức cần thiết.
III. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền của Tòa án trong việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ
Theo quy định tại Điều 179 và khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định thì Tòa án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần, theo quy định tại khoản 2 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu điều tra bổ sung nhưng không phải lúc nào Viện kiểm sát cũng chấp nhận việc trả hồ sơ của Tòa án, rất nhiều trường hợp sau khi nhận hồ sơ thì Viện kiểm sát lại có công văn trả lại ngay mà không thực hiện những yêu cầu của Tòa án về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tòa án cho rằng còn thiếu chứng cứ quan trọng, Viện kiểm sát lại cho rằng chứng cứ đã được thu thập đầy đủ dẫn đến tình trạng Tòa cứ trả còn Viện thì không điều tra bổ sung mà vẫn giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và chuyển hồ sơ sang Tòa án.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật Tổ chức TAND nêu trên thì: “Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền:…Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”. Như vậy, khi Tòa án thấy cần thiết điều tra bổ sung, trả hồ sơ, Viện kiểm sát không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, Tòa án tiếp tục yêu cầu bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm thì Tòa án trực tiếp xác minh, thu thập chứng cứ.
Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Điều 38 quy định về thẩm quyền phân công Thẩm phán, Thư ký xác minh, thu thập chứng cứ của Chánh án; sửa đổi, bổ sung Điều 39 quy định về thẩm quyền của Thẩm phán trong việc kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ; Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xác minh, thu thập chứng cứ mà bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác có yêu cầu thay đổi thì cũng phải sửa đổi, bổ sung Điều 46 về thay đổi đối với Thẩm phán xác minh, thu thập chứng cứ và cũng phải quy định quyền của bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác tại các điều 49 đến 53 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành; sửa đổi, bổ sung Điều 179 theo hướng Tòa án có thẩm quyền kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ đối với những vụ án mà Viện kiểm sát đã điều tra bổ sung hoặc trả hồ sơ cho cơ quan điều tra điều tra bổ sung mà chưa đáp ứng được yều cầu của Tòa án. Việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ của Tòa án cũng cần phải quy định trình tự, thủ tục, thời hạn chặt chẽ trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành:“Khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định”. Như vậy, có thể hiểu không chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà cả Tòa án cũng có thẩm quyền trưng cầu giám định trong trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định hoặc khi xét thấy cần thiết để xác định tính khách quan và giải quyết đúng đắn của vụ án hình sự. Tuy nhiên, về thẩm quyền ra Quyết định trưng cầu giám định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và của Viện trưởng Viện kiểm sát đều được quy định tại Điều 34, Điều 36 Bộ luật tố tụng còn thẩm quyền quyết định trưng cầu giám định của Tòa án chưa được quy định cụ thể. Vì vậy, cần bổ sung thẩm quyền này cho Tòa án trong quá trình xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ. Cụ thể, quy định thêm nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án về Quyết định trưng cầu giám định tại Điều 38 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.
Về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, theo điểm d khoản 3 Điều 2 Luật Tổ chức TAND sửa đổi thì Hội đồng xét xử có quyền: “d) Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”; Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 thì "...Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra".
Từ thực tiễn công tác xét xử cho thấy nhiều trường hợp Tòa án trả hồ sơ nhiều lần yêu cầu truy tố thêm hành vi phạm tội hoặc người phạm tội mới nhưng Viện kiểm sát không phúc đáp yêu cầu của Tòa án. Do đó, Tòa án không thể bảo vệ được công lý. Để bảo đảm cho Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… theo Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án mới có hiệu quả thì sau khi trả hồ sơ yêu cầu truy tố thêm người phạm tội hoặc thêm hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát không truy tố, thông qua xét xử tại phiên tòa, phát hiện hoặc làm rõ dấu hiệu của tội phạm, Hội đồng xét xử khởi tố vụ án sau đó yêu cầu điều tra bổ sung để đảm bảo giải quyết triệt để vụ án, bảo đảm công bằng, công lý. Vì vậy cũng cần quy định rõ trong chương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về thẩm quyền này của Hội đồng xét xử; đồng thời, cần quy định trách nhiệm của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát khi nhận lại hồ sơ vụ án để thực hiện việc khởi tố bị can (nếu có) điều tra làm rõ hành vi phạm tội, kết luận điều tra chuyển Viện kiểm sát truy tố toàn bộ vụ án và quy định cụ thể về thẩm quyền triệu tập Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác đến phiên tòa để trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án cũng như trách nhiệm của những người này tại phiên tòa.