Phiên tòa luận tội ông Trump khác với phiên tòa hình sự như thế nào?
Thế giới - Ngày đăng : 15:01, 18/12/2019
Ngày 18/12, Hạ viện do Đảng Dân chủ lãnh đạo họp bỏ phiếu luận tội Tổng thống Trump về các cáo buộc xuất phát từ những nỗ lực gây áp lực buộc Ukraine tiến hành điều tra đối thủ chính trị của ông Trump. Nhiều khả năng ông Trump sẽ trở thành Tổng thống thứ 3 trong lịch sử nước Mỹ bị luận tội tại Hạ viện.
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump phát biểu trong hội nghị bàn tròn về bãi bỏ quy định tại Nhà Trắng ở Washington, Mỹ, ngày 16 tháng 12 năm 2019.
Khi nói rằng cuộc điều tra luận tội của Hạ viện là bất hợp pháp, ông Trump và các đồng minh Cộng hòa của mình đã đề cập đến các khái niệm như quy trình điều tra của một vụ án - điều khiến người ta liên tưởng tới các vụ án hình sự.
Tổng thống Trump đã nói rằng ông hy vọng sẽ có được một phiên tòa xét xử công bằng tại Thượng viện do Đảng Cộng hòa kiểm soát nếu Hạ viện bỏ phiếu luận tội ông.
Trong khi các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ sẽ thực hiện trách nhiệm như một bồi thẩm đoàn, các chuyên gia pháp lý nói rằng một phiên tòa luận tội sẽ có những điểm khác về cơ bản với một thủ tục tố tụng hình sự của Hoa Kỳ.
Trong một cuộc điều tra luận tội, Hạ viện có chức năng như văn phòng của một công tố viên. Nếu văn phòng này xác định Tổng thống phạm tội thì một nhóm thành viên Hạ viện phải đưa ra bằng chứng về hành vi sai trái trong một phiên tòa trước Thượng viện, đóng vai trò là bồi thẩm đoàn trong việc quyết định liệu tổng thống có nên bị cách chức hay không.
Trong lịch sử, các tổng thống đối mặt với một phiên tòa luận tội đã được cấp một số biện pháp bảo vệ như những gì một bị cáo nhận thông thường có được trong các vụ án hình sự, chẳng hạn như quyền có mặt luật sư và yêu cầu lời khai của nhân chứng. Tuy nhiên, các chuyên gia pháp lý nói rằng các thủ tục luận tội không bao giờ được tiến hành như các vụ án hình sự.
Trong một báo cáo năm 1974, Ủy ban Tư pháp Hạ viện cho rằng luận tội là một quá trình khắc phục, chứ không phải là trừng phạt. Báo cáo ghi rõ: “Luận tội và luật hình sự phục vụ các mục đích cơ bản khác nhau. Mục đích của luận tội không phải là hình phạt cá nhân; chức năng của nó chủ yếu là duy trì chính phủ lập hiến”.
Các thẩm phán Hoa Kỳ có trách nhiệm đảm bảo rằng bồi thẩm đoàn công bằng và không có định kiến về một vụ án. Tương tự vậy, theo các quy định của Hiến pháp và Thượng viện Hoa Kỳ, các thượng nghị sĩ phải tuyên thệ và thề rằng họ sẽ vô tư. Họ phải thề sẽ trung thành với đất nước trước khi xét xử và sẽ không thiên vị.
Thứ hai, Luật pháp Hoa Kỳ hạn chế sử dụng những bằng chứng dựa trên suy đoán trong vụ án hình sự. Có nhiều quy tắc phức tạp giới hạn việc sử dụng thông tin tin đồn. Nhưng những quy tắc về bằng chứng như vậy không áp dụng cho luận tội.
Các nhà lập pháp Đảng Cộng hòa đã chỉ trích cuộc điều tra luận tội của Hạ viện là một cuộc “đấu đá chính trị” dựa trên tin đồn. Họ nói rằng các nhân chứng như cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine Marie Yovanovitch không bao giờ nói chuyện trực tiếp với Tổng thống Trump và do đó lời khai của Marie Yovanovitch thiếu uy tín.
Các chuyên gia pháp lý cho biết, Chánh án Tòa án tối cao Hoa Kỳ John Roberts có thể bác bỏ những bằng chứng được sử dụng trong phiên tòa Thượng viện với lý do là không liên quan hoặc chỉ là tin đồn, nhưng một quyết định như vậy có thể bị đảo ngược bởi đa số phiếu của Thượng viện.
Chánh án John Roberts không muốn bị coi là có suy nghĩ đảng phái, vì vậy ông có thể sẽ rất cẩn thận và phải cố gắng để giúp các thượng nghị sĩ đưa ra những quyết định quan trọng.
Thứ ba là về tiêu chuẩn của các bằng chứng. Jessica Levinson, giáo sư tại Trường Luật Loyola ở Los Angeles cho biết, trong khi thẩm phán trong các vụ án hình sự không được phép kết án bị cáo trừ khi có bằng chứng chính xác về phạm tội, thì lại không có tiêu chuẩn chính thức nào về bằng chứng trong quá trình luận tội tổng thống.
Thẩm phán trong các vụ án hình sự được yêu cầu đưa ra những quyết định có căn cứ thực tế. Trong khi đó, các thượng nghị sĩ đang đưa ra cả quyết định thực tế lẫn những phán đoán chính trị, gây khó khăn cho việc đưa ra quyết định liệu việc tổng thống có phạm tội hay không.
Cuối cùng, theo Hiến pháp Hoa Kỳ, chỉ cần có hai phần ba phiếu thuận của Thượng viện để kết tội một tổng thống. Điều đó khác với hầu hết các phiên tòa hình sự, trong đó các thành viên bồi thẩm đoàn phải đạt được sự nhất trí.