Với tư cách là chủ thể của pháp luật tố tụng hình sự, pháp nhân thông qua người đại diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ tham gia đầy đủ vào các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định tại Điều 434 BLTTH.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật
Điều 431 BLTTHS năm 2015 quy định phạm vi áp dụng BLTTHS đối với pháp nhân: “Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”.
Với tư cách là chủ thể của pháp luật tố tụng hình sự, pháp nhân thông qua người đại diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ tham gia đầy đủ vào các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định tại Điều 434 BLTTHS: “Mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng”.
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia vào trong tố tụng hình sự được BLTTHS năm 2015 quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể tại Điều 435. Nói cách khác pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng như người bị buộc tội. Các quyền và nghĩa vụ tố tụng này được thực hiện thông qua người đại diện.
Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”.
Như vậy, pháp nhân thương mại có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật. BLTTHS năm 2015 đã quy định trường hợp pháp nhân có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì “cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng” (khoản 1 Điều 434 BLTTHS năm 2015). Đây là quy định phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Để tránh bỏ lọt tội phạm, khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định: Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Như vậy, trong trường hợp chứng minh được việc phạm tội của pháp nhân có sự tham gia của các cá nhân cụ thể thì các cá nhân này cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã thực hiện.
Xác định các tội danh mà pháp nhân thương mại thực hiện
Điều 432, Điều 433 BLTTHS năm 2015 quy định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với pháp nhân, trên cơ sở các quy định về khởi tố vụ án, khởi tố bị can áp dụng đối với cá nhân, con người phạm tội cụ thể. Tại các Điều 436 đến Điều 439 BLTTHS năm 2015 quy định một số biện pháp cưỡng chế áp dụng với pháp nhân phạm tội nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được diễn ra bình thường như: Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án” (Điều 436 BLTTHS năm 2015).
Một trong những vấn đề được xem xét khi quy định pháp nhân là chủ thể của pháp luật tố tụng hình sự chính là việc chứng minh những nội dung quan trọng để định tội danh đối với pháp nhân, đó là các yếu tố hành vi phạm tội, yếu tố lỗi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi – hậu quả, cũng giống như đối với chủ thể phạm tội là cá nhân con người cụ thể.
Điều 441 BLTTHS năm 2015 quy định: “1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo quy định của Bộ luật hình sự; Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội”.
BLTTHS năm 2015 quy định tại Điều 444 về thẩm quyền xét xử của Tòa án, theo đó, Tòa án có thẩm quyền xét xử với pháp nhân được quy định là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm.
Theo các chuyên gia, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại là một vấn đề mới được đặt ra. Do vậy việc xác định các tội danh mà pháp nhân thương mại thực hiện cần thận trọng, có các bước đi phù hợp, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm và phổ biến của những vi phạm xảy ra trong thực tiễn để quy định trong BLHS nhằm xử lý hành vi phạm tội. Việc pháp nhân phạm tội không loại trừ TNHS của cá nhân. Do vậy trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cần làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì cần xử lý hình sự cả cá nhân và pháp nhân về tội mà họ đã thực hiện. Như vậy việc xử lý tội phạm mới triệt để, toàn diện, tránh bỏ lọt tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội.