Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 đã có những quy định mới, tiến bộ hơn so với BLDS 2005, đặc biệt là chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 385 BLDS 2015 “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng hợp pháp là một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ giữa các bên chủ thể của hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình, thì bên đó sẽ phải gánh chịu một số hậu quả pháp lý bất lợi mà dưới góc độ khoa học pháp lý được gọi là trách nhiệm dân sự. Trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những trách nhiệm dân sự được ghi nhận tại Điều 11 BLDS 2015.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ là một trong những nội dung được bổ sung một cách cơ bản so với quy định tại BLDS 2005. Thay vì chỉ quy định chung trong một điều luật (Điều 307 BLDS 2005), BLDS 2015 dành tới 4 điều luật để quy định về nội dung này (từ Điều 360 đến Điều 363 BLDS 2015).
Từ quy định tại những điều này có thể thấy một số nội dung mới phát triển. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường được ghi nhận đầy đủ và rõ ràng hơn.
Điều 360 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác” – đây là quy định mới được bổ sung tại BLDS 2015. Quy định này chỉ rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh khi có các yếu tố sau: có thiệt hại; có hành vi vi phạm nghĩa vụ; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi vi phạm nghĩa vụ; có lỗi.
Các loại thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng cũng được xác định cụ thể, đầy đủ và rõ ràng, hợp lý hơn so với trước đây.
Điều 419 BLDS 2015 quy định: 1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật này. 2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại. 3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.
Điều 419 đã thể hiện được các điểm mới quan trọng: Các thiệt hại được bồi thường không chỉ là các thiệt hại thực tế, hiện hữu như trước đây BLDS 2005 đã quy định mà còn cả các thu nhập bị bỏ lỡ (khoản lợi mà đáng lẽ ra trong điều kiện bình thường thì bên bị thiệt hại sẽ có được nhưng do hành vi vi phạm của bên kia mà mình đã không thu được). Điều 419 quy định thêm một loại thiệt hại được bồi thường, đó là các chi phí mà bên bị vi phạm đã phải gánh chịu trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Theo Khoản 3 Điều 419 thì người vi phạm có thể phải bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người bị hại trong đó có các pháp nhân thương mại (doanh nghiệp). Đây cũng là một điểm mới liên quan đến các loại thiệt hại được bồi thường mà trước đây được quy định còn mập mờ, không rõ ràng, gây tranh chấp không đáng có.
Về nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại: BLDS 2015 quy định việc ngăn chặn, hạn chế thiệt hại trở thành một xử sự bắt buộc của bên có quyền, cụ thể, Điều 362 quy định: "Bên có quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình.”
Về việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên vi phạm có lỗi, BLDS 2015 đã bổ sung Điều 363 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại xảy ra do một phần lỗi của bên vi phạm: "Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình". Quy định này phù hợp với thực tiễn và nguyên tắc tự chịu trách nhiệm theo quy định tại Khoản 5 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, quy định mới này cũng bảo đảm sự phù hợp của quy định pháp luật với lẽ công bằng.
Như vậy, so với BLDS 2005, các quy định về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng tại Bộ luật Dân sự 2015 đã có tiến bộ hơn rất nhiều. Điều này thể hiện ở việc xác định đầy đủ và rõ ràng hơn về các điều kiện (căn cứ) làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Xác định rõ ràng, đầy đủ, cụ thể và hợp lý hơn các loại thiệt hại được bồi thường, góp phần chấm dứt sự trách nhiệm không đáng có về các loại thiệt hại được bồi thường nói chung và trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng; quy định về trách nhiệm của bên bị vi phạm trong việc ngăn chặn, hạn chế các thiệt hại có thể xảy ra cho mình.