Chiều 3/6, các ĐBQH thảo luận tại hội trường về dự án Luật Tổ chức TAND (sửa đổi). Theo đó, nhiều nội dung quan trọng được tập trung thảo luận như việc thực hiện quyền tư pháp của TAND; thành lập TAND sơ thẩm khu vực và việc phát triển án lệ của TANDTC.
Qua thảo luận, đa số ý kiến tán thành với Ban soạn thảo trong việc xây dựng dự án Luật Tổ chức TAND (sửa đổi). Trước đó, đánh giá về dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi), Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cho rằng, cơ quan chủ trì đã tích cực triển khai soạn thảo dự án Luật. Nhìn chung, dự án Luật có nhiều quy định mới, bước đầu đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể hiện được một số định hướng cải cách tư pháp của Đảng liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND. Dự án Luật đã thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Dự thảo đã làm rõ hệ thống, cơ cấu, tổ chức của các TAND và cơ cấu, tổ chức bộ máy trong từng TAND cũng như cơ chế quản lý TAND về tổ chức để bảo đảm tính độc lập của hoạt động xét xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Thực hiện quyền tư pháp của Tòa án
Đây là nội dung được nhiều đại biểu đề cập đến trong buổi thảo luận. Chức năng, nhiệm vụ này của Tòa án theo quy định của Hiến pháp đã được cụ thể hóa tại Điều 2 của dự thảo Luật được các đại biểu đồng tình. Các đại biểu cho rằng, Hiến pháp mới quy định, Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp là một điểm mới rất quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta. Quy định như vậy nhằm đảm bảo tính độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử, thực sự là cơ quan bảo vệ công lý. Sự thay đổi này đòi hỏi phải có sự thay đổi thiết kế về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị pháp lý của Thẩm phán được cụ thể hóa trong điều luật, đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán. Đây là một trong những chế định hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp, đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán hiện nay.
Quốc hội thảo luận tại Hội trường
Có đại biểu cho rằng, để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền tư pháp, dự thảo Luật cần sửa đổi, bổ sung những nội dung nhằm xác định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, tạo cơ sở pháp lý cho TAND thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Tòa án thực hiện nhiệm vụ hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử mà còn là quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.
Đại biểu Nguyễn Doãn Khánh (Phú Thọ) đồng tình với dự thảo Luật và những nội dung nêu trên về việc thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, ông đề nghị bổ sung thêm một nội dung quan trọng tại khoản 2, Điều 2 về nhiệm vụ của Tòa án, đó là tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong quá trình xét xử Tòa án nếu phát hiện thấy đủ cơ sở có sự bỏ lọt, bỏ sót tội phạm. Đây cũng là nhiệm vụ được quy định trong Luật Tố tụng hình sự cần được chính thức hóa trong Luật Tổ chức TAND.
Cùng quan điểm, đại biểu Hồ Thị Thủy (Vĩnh Phúc) nhận định: Quyền tư pháp là quyền hiến định, quyền riêng có của Tòa án. TAND là cơ quan bảo vệ công lý, cho nên những vấn đề liên quan đến quyền con người như quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định xử lý các vi phạm hành chính nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền nhân thân và tài sản của cá nhân, tổ chức phải do Tòa án quyết định. Các nhiệm vụ, quyền hạn này cũng cần được thể hiện rõ hơn trong nội hàm quyền tư pháp. Đặc biệt, cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng cơ chế kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó cần tiếp tục mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử các khiếu kiện hành chính.
Nên thành lập TAND sơ thẩm khu vực
Thảo luận về vấn đề thành lập TAND sơ thẩm khu vực, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 (Điều 32) của dự thảo Luật. Theo các đại biểu, việc thành lập như vậy sẽ góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập về việc tổ chức TAND cấp huyện hiện nay, đồng thời tăng cường tính độc lập của TAND sơ thẩm khu vực trong xét xử cũng như tập trung đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, tránh dàn trải.
Trước thực tế, lượng án giữa các Tòa án giải quyết hàng năm không giống nhau dù cơ cấu, tổ chức vẫn giống nhau, nhiều đại biểu thống nhất với quan điểm của TANDTC cho rằng, thành lập TAND theo đơn vị hành chính lãnh thổ đang tạo ra những trở ngại, khó khăn, thách thức lớn trong đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường nguồn lực để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng công tác của các Toà án cấp huyện.
Không những thế, sức ép về đầu tư cơ sở vật chất và đội ngũ Thẩm phán cho TAND cấp huyện sẽ càng tăng trước xu hướng tăng thêm đơn vị hành chính cấp huyện. Bên cạnh đó, do được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện nên TAND bị coi là “cơ quan của địa phương”, ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, nhất là trong việc giải quyết các vụ án hành chính, khi một bên trong vụ án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
Theo các đại biểu, việc thành lập TAND sơ thẩm khu vực sẽ góp phần khắc phục được những hạn chế, bất cập về việc tổ chức TAND cấp huyện hiện nay. Mặt khác, việc thành lập TAND sơ thẩm khu vực sẽ không tạo ra nhu cầu quá lớn về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cũng như không gây khó khăn cho người dân trong việc đi lại khi có công việc cần giải quyết tại Tòa án. Ngoài ra, việc tổ chức TAND sơ thẩm khu vực là tiền đề để đổi mới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của HĐND đối với tổ chức, hoạt động của TAND theo hướng thực chất, hiệu quả hơn, qua đó tạo điều kiện bảo đảm để Tòa án thực hiện tốt công tác xét xử, góp phần ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng và phát triển đất nước.
Cần xây dựng và phát triển án lệ
Liên quan việc xây dựng và phát triển án lệ, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành quy định giao cho TANDTC xây dựng án lệ như trong dự thảo Luật. Dự thảo Luật quy định, nhiệm vụ của TANDTC là xây dựng và phát triển án lệ để thể chế hóa định hướng cải cách tư pháp của Đảng, đồng thời, cụ thể hóa quy định tại Điều 104 của Hiến pháp về việc “TANDTC bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”.
Thực tiễn công tác xét xử trong thời gian qua cho thấy, có những quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng và có cách hiểu khác nhau, dẫn đến việc áp dụng không đúng hoặc không thống nhất. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm hướng dẫn thống nhất pháp luật thì cần lựa chọn và ban hành án lệ để các Tòa án áp dụng theo. Việc ban hành phát triển án lệ sẽ đáp ứng yêu cầu cần phải kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật.
Đại biểu Đặng Công Lý (Bình Định) nhấn mạnh: Việc công bố án lệ sẽ giúp người dân nắm rõ đường lối xét xử, dự báo được kết quả những vụ việc có liên quan đến quyền lợi và lợi ích của họ. Về phía Tòa án, việc tham khảo án lệ, phân tích thiếu sót trong những vụ xét xử trước đó giúp cho Thẩm phán rút kinh nghiệm, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc xử oan sai có thể xảy ra. Việc phát triển án lệ là một trong những phương thức hữu hiệu để đảm bảo công lý, góp phần duy trì, ổn định trật tự pháp luật trong đời sống xã hội.
Trước khi dẫn ra kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới quy định việc ban hành án lệ của Tòa án, đại biểu Đào Thị Xuân Lan (Hưng Yên) cũng cho rằng: Án lệ là bản án đã tuyên hoặc một sự giải thích pháp luật được coi như một tiền lệ làm cơ sở để các Thẩm phán sau đó có thể áp dụng xét xử các vụ án trong các trường hợp tương tự. Hiện nay, khi hệ thống pháp luật của chúng ta đang trong giai đoạn hoàn thiện thì vấn đề xây dựng án lệ là hết sức cần thiết, làm tài liệu quan trọng giúp các Thẩm phán nghiên cứu, áp dụng thống nhất pháp luật khi xét xử. Nhất là khi có nhiều vấn đề mới phát sinh mà pháp luật hiện hành chưa kịp thời điều chỉnh hoặc một số vấn đề chưa được hướng dẫn thi hành, trong khi thực tiễn lại có nhiều cách hiểu khác nhau. Như vậy sẽ khó tránh khỏi trường hợp, cùng một sự kiện pháp lý với tính chất, mức độ của hành vi giống nhau nhưng các Tòa án lại áp dụng khác nhau về tội danh và hình phạt. Vì vậy, triển khai chủ trương cải cách tư pháp của Đảng giao cho TANDTC có nhiệm vụ phát triển án lệ là hoàn toàn đúng đắn.
Chỉ nên có hai ngạch Thẩm phán
Về ngạch Thẩm phán, nhiều ý kiến đồng ý với phương án 1, Điều 51 của dự thảo Luật quy định Thẩm phán có hai ngạch: Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán sẽ phù hợp với hoạt động xét xử. Bởi lẽ, việc quy định đến bốn ngạch Thẩm phán như hiện tại sẽ gây vướng mắc trong việc luân chuyển, điều động, biệt phái, bổ nhiệm. Điều này cũng không khuyến khích sự năng động của Thẩm phán, có trường hợp ở cấp phúc thẩm có những án bị hủy nhiều lần, không còn Thẩm phán để ngồi trong Hội đồng xét xử, nhưng cũng không thể điều động Thẩm phán sơ cấp lên để xét xử, dẫn đến tình trạng án bị tồn… “Quy định chức danh Thẩm phán theo bốn ngạch vừa gây tâm lý không thoải mái, vừa khó khăn cho công tác điều động cán bộ. Vì vậy, chỉ nên chia làm hai ngạch là Thẩm phán và Thẩm phán TANDTC”, đại biểu Huỳnh Ngọc Ánh (TP Hồ Chí Minh) nhấn mạnh.
Đại biểu Hồ Thị Thủy (Vĩnh Phúc) khẳng định, về chế độ chính sách đối với Thẩm phán, hoạt động của Thẩm phán là hoạt động đặc thù, phải đối diện với rất nhiều áp lực, nhiều khi còn là mối đe dọa, xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của bản thân Thẩm phán cũng như người thân của họ. Do đó, rất cần có chế độ, chính sách phù hợp, tương xứng với tính chất nghề nghiệp. Vì vậy, trước Quốc hội, bà đề nghị bổ sung các quy định thể hiện rõ cơ chế bảo vệ Thẩm phán, người thân của họ trước mọi sự đe dọa và cần có cơ chế đảm bảo để Thẩm phán độc lập, khách quan trong hoạt động xét xử.
Nhiệm kỳ, tuổi làm việc của Thẩm phán sẽ thay đổi lớn
Góp ý về nhiệm kỳ của Thẩm phán, nhiều ý kiến nhất trí với phương án 1 (Điều 57) về nhiệm kỳ của Thẩm phán: "Thẩm phán TANDTC được bổ nhiệm không kỳ hạn. Nhiệm kỳ của Thẩm phán khác là 10 năm". Nhiệm kỳ của Thẩm phán theo quy định hiện hành (5 năm) là ngắn và chưa phù hợp, ít nhiều tạo tâm lý không yên tâm làm việc của Thẩm phán. Mặt khác, việc quy định này là quá khắt khe, trong khi đó, quy trình tái bổ nhiệm rất phức tạp và phải qua nhiều khâu cũng như mất nhiều thời gian. Đồng thời, quy định như vậy gây áp lực tâm lý cho Thẩm phán và ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong công tác xét xử. Hiện nay, ở nhiều đơn vị, do nhiệm kỳ bổ nhiệm Thẩm phán ngắn (5 năm), nhiều Thẩm phán phải "ngồi chờ" để được tái bổ nhiệm, trong khi đó án nhiều mà không được xét xử.
Các đại biểu còn tham gia đóng góp nhiều ý kiến trên các lĩnh vực khác như, đại biểu Bùi Mạnh Hùng (Bình Phước) cho rằng: Về Hội thẩm nhân dân, dự thảo quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn v.v... nhưng chưa quy định được vai trò, chức năng của Hội thẩm nhân dân tại phiên tòa. “Theo tôi, nếu không ghi rõ được vai trò và chức năng của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa thì Hội thẩm nhân dân sẽ không phát huy đúng chức năng là đại diện cho nhân dân tại phiên tòa, rất dễ trở thành hình thức và Hội thẩm nhân dân sẽ không thiết tha với công việc”, ông Hùng nhấn mạnh.
Về việc thành lập Tòa giản lược trong cơ cấu, tổ chức của TAND, đại biểu Vi Thị Hương (Điện Biên) đồng tình với phương án thành lập Tòa giản lược. Theo bà Hương, thành lập Tòa giản lược để thực hiện nhiệm vụ mà Tòa án được giao theo Luật Xử lý vi phạm hành chính, đó là xem xét quyết định áp dụng các biện pháp xử lý đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Số vụ việc này phải giải quyết hàng năm rất lớn. Theo kết quả tổng kết chung thì mỗi năm có khoảng 23.873 trường hợp. Vì vậy, nếu giao cho Tòa Hành chính giải quyết thì rất khó thực hiện, nhất là trong xu hướng hiện nay, án hành chính đang ngày càng tăng và ngày càng phức tạp. Hơn nữa, việc quy định trong cơ cấu, tổ chức của TAND có Tòa giản lược là quy định về mặt nguyên tắc, còn việc thành lập Tòa này ở Tòa án nào thì còn phụ thuộc vào quy mô, công việc, đội ngũ Thẩm phán, công chức của từng Tòa án, do Chánh án TANDTC cân nhắc quyết định.
Cũng có ý kiến về Tòa giản lược, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP Hồ Chí Minh) băn khoăn: Tòa giản lược là Tòa hình sự, dân sự hay hành chính cũng cần làm rõ vì đang có sự lúng túng. Ví dụ như ở Sài Gòn (cũ) có Tòa cấp thẩm, những vụ án hình sự nhỏ như cướp giật, móc túi giá trị nhỏ, bắt quả tang, chỉ cần một Thẩm phán xử, ví dụ ba tuần lễ hay hai tháng tù là xong. Ở một số nước có Tòa giản lược cho dân sự, tức là những vụ kiện dân sự trị giá quá thấp thì đưa vào Tòa giản lược. Còn vấn đề hành chính nữa, vì vậy, theo lập luận của Tờ trình, cần làm rõ Tòa giản lược này là hình sự, dân sự hay hành chính.
Theo Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình, các ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại hội trường rất sâu sắc, cụ thể, làm rõ được nhiều vấn đề quan trọng. Trên cơ sở này, Ban soạn thảo sẽ tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện để sớm trình Quốc hội thông qua nhằm đổi mới tổ chức bộ máy, hoạt động để hệ thống TAND có đầy đủ điều kiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước, Quốc hội và nhân dân giao phó.
:
ĐB Trần Văn Độ: Có ý kiến cho rằng tổ chức Tòa án 4 cấp sẽ sinh ra lãng phí, phình biên chế. Tôi khẳng định rằng không. Bởi lẽ, Tòa án cấp cao thực chất trong luật này là cụ thể hóa tách 3 Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà Nội thành 3 Tòa cấp cao mà không hề tăng biên chế, không hề phình tổ chức. Còn về Tòa sơ thẩm khu vực cũng không phình về tổ chức, ngược lại nếu thành lập Tòa sơ thẩm khu vực thì chúng ta sẽ giảm được biên chế về bộ máy giúp việc, chúng ta sẽ tập trung được nhân lực, vật lực. Ở đây chúng ta nói là Tòa chuyên trách không có nghĩa là một cơ cấu hành chính mà Tòa chuyên trách là một cơ cấu tố tụng để chúng ta chuyên môn hóa, ví dụ Tòa hình sự là các Thẩm phán chuyên hình sự làm, về dân sự là các Thẩm phán chuyên dân sự làm v.v... để chúng ta chuyên môn hóa đội ngũ, chuyên môn hóa đào tạo bồi dưỡng.
ĐB Đặng Công Lý (Bình Định): Số lượng các vụ việc giải quyết mỗi Tòa án cấp huyện phụ thuộc vào đặc điểm dân số, địa lý, mức độ phát triển kinh tế - xã hội, số lượng tội phạm, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại xảy ra trên từng địa bàn, có nơi quá nhiều việc, ngược lại có nơi quá ít việc. Ví dụ điển hình như tỉnh Bình Định có 11 Tòa án huyện, thị xã, thành phố. Có huyện một năm chỉ có 50 - 60 vụ án các loại, có huyện một năm có 400 - 500 vụ án các loại. Riêng TP Quy Nhơn một năm trên 1.000 vụ án các loại. Án xảy ra rất phức tạp, nhất là các tranh chấp dân sự về đất đai, chia thừa kế, án hành chính, án kinh doanh thương mại. Trong khi biên chế mỗi đơn vị Tòa án cấp huyện đều có Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký, kế toán, văn thư, bảo vệ… Nếu triển khai việc thành lập Tòa sơ thẩm khu vực, tỉnh chúng tôi sáp nhập lại chỉ có 6 Tòa sơ thẩm khu vực.
ĐB Huỳnh Ngọc Ánh (TP Hồ Chí Minh): Bản thân tôi trải qua 5 lần tái bổ nhiệm Thẩm phán cho thấy, mỗi lần làm thủ tục tái bổ nhiệm phải qua nhiều khâu, nhiều thủ tục, nhiều cơ quan đoàn thể có ý kiến. Phải qua Hội đồng tuyển chọn rồi trình lên Chánh án TANDTC ra quyết định trước khi có ý kiến của cấp ủy địa phương. Đây là một trong những nguyên nhân làm nguyên tắc độc lập của Thẩm phán bị ảnh hưởng ít nhiều.
Mặt khác, quy trình như vậy nhưng bản thân tôi cũng như phần lớn các Thẩm phán trên toàn quốc đều được tái bổ nhiệm mà không cần phải trải qua bất kỳ sát hạch hay kiểm tra kiến thức, năng lực gì. Một số ít Thẩm phán vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp bị kỷ luật hoặc một số Thẩm phán bị tỷ lệ án hủy, sửa cao, bị ngưng tái nhiệm từ 6 tháng đến một năm hoặc hai năm rồi cũng được tái bổ nhiệm lại. Như vậy, qua thực tiễn cho thấy, việc quy định nhiệm kỳ Thẩm phán là 5 năm cũng không có ý nghĩa gì lớn mà chỉ mang lại tâm lý lo lắng, e ngại, không yên tâm làm việc, điều này gây tốn kém về thời gian, vật chất cho công tác tái bổ nhiệm. Do vậy, nếu được, tôi đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán không kỳ hạn, nếu thời điểm bây giờ chưa đáp ứng được yêu cầu thì ít nhất phải là 10 năm như dự thảo, như vậy cũng thể chế hóa được tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị.
ĐB Phạm Xuân Thường (Thái Bình): Về hệ thống tổ chức TAND, tôi nhất trí với việc tổ chức Tòa án bốn cấp, trong đó có việc thành lập Tòa án cấp cao, đây là điểm mới so với luật hiện hành. Việc tổ chức Tòa án cấp cao để thực hiện xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm là nhiệm vụ của TANDTC trước đây sẽ giúp TANDTC tập trung vào việc tổng kết thực tiễn xét xử, hình thành án lệ, hướng dẫn áp dụng thống nhất đường lối xét xử trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, dự án luật loại trừ thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm của Tòa án cấp tỉnh là bất hợp lý. Những nút thắt hiện nay trong việc giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ không được giải quyết kịp thời, tiếp tục tồn đọng, nếu bỏ thẩm quyền này của Tòa án cấp tỉnh dồn cho Tòa án cấp cao. Vì vậy, đề nghị Quốc hội nghiên cứu giữ lại thẩm quyền này cho TAND cấp tỉnh.
ĐB Trương Thái Hiền (Kiên Giang): Thẩm phán là một nghề khoa học xã hội, đòi hỏi phải có nghiệp vụ chuyên môn cao và dày dặn kinh nghiệm trong công tác xét xử. Ngoài phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị còn đòi hỏi phải có năng khiếu nghề nghiệp, nắm vững pháp luật. Do vậy, dù ở huyện hay ở tỉnh, ở cấp sơ thẩm hay phúc thẩm đều phải đảm bảo công tác xét xử theo đúng luật định. Điều bất cập dẫn đến bất bình đẳng trong công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ là, nếu đồng chí nào bố trí ở cấp sơ thẩm, mặc dù năng lực, học vị, thâm niên như nhau nhưng chế độ chính sách, lương bổng so với đồng chí được bổ nhiệm ở cấp tỉnh làm Thẩm phán trung cấp thì Thẩm phán ở cấp sơ thẩm rất thiệt thòi, không kích thích người lao động. Do vậy, tôi đề nghị chọn phương án 1 là Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán.
Về vấn đề quản lý TAND ở Điều 8, tôi thấy: Từ khi Luật Tổ chức TAND năm 2002 có hiệu lực đến nay, việc quản lý Tòa án địa phương của TANDTC đã ổn định và đi vào hoạt động tích cực, nhất là thực hiện Nghị quyết Trung ương VII tinh gọn bộ máy, ổn định tổ chức và không tăng biên chế. Do vậy, tôi đề nghị giữ nguyên mô hình tổ chức Tòa án hiện nay do TANDTC quản lý mà không cần giao Chính phủ hoặc Bộ Tư pháp quản lý. Ngoài ra, tôi đề nghị nên đưa chế định án lệ và Tòa giản lược vào cơ cấu, tổ chức Tòa án để làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của Tòa án sau này.