Để nâng cao chất lượng công tác tư pháp, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến hoạt động xét xử.
Nghị quyết 08-NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định: "Việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo… để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục".
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp”.
Hiến pháp 2013 quy định: TAND là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp và nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, cụ thể, tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp quy định: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; tại khoản 5 Điều 103 quy định về nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử.
Theo quy định của pháp luật tố tụng, Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án tại phiên tòa; phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng, căn cứ vào kết quả thẩm vấn và những chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa. Từ khi Nghị quyết số 08/NQ-TW được quán triệt, triển khai thực hiện, việc tổ chức phiên tòa của hệ thống Tòa án nói chung đã được đổi mới trên cơ sở các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Luật Tố tụng hành chính 2010 và tinh thần cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, chất lượng tranh tụng của từng phiên tòa cũng còn những hạn chế nhất định và trong một số trường hợp việc hạn chế này xuất phát từ nguyên nhân tổ chức phiên tòa. Đó là:
Ông Nguyễn Huy Du trình bày tham luận tại Hội nghị
- Tổ chức phiên tòa không có sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: Nhìn chung các phiên tòa không có sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, hoạt động tranh tụng còn nhiều bất cập; nhiều quy định của pháp luật chưa thực sự phù hợp dẫn đến những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện hoạt động tranh tụng trong xét xử của Tòa án. Thực tế, nếu vụ án hình sự không có sự tham gia của người bào chữa, phần tranh luận tại phiên tòa hết sức đơn giản, bởi lẽ bị cáo khó có thể trình bày được nội dung bào chữa, cũng như những ý kiến phản bác đối với ý kiến kết luận của đại diện Viện kiểm sát. Trong trường hợp này, Tòa án lại phải đóng vai một "người bào chữa" bất đắc dĩ khi phải tự mình nhận xét trong bản án về những ý kiến kết luận mà đại diện Viện kiểm sát nêu ra.
- Tổ chức phiên tòa thiếu người làm chứng: Hiện nay, đối với nhiều vụ án, vì các lý do khác nhau Tòa án chấp nhận người làm chứng, nhất là người làm chứng là đại diện các cơ quan nhà nước trong trường hợp phải giải thích, lý giải về những vấn đề liên quan đến tình tiết của vụ án vắng mặt, vì đã có có lời khai trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, việc người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, dẫn đến việc Hội đồng xét xử không được trực tiếp nghe, thẩm định lại các chứng cứ đã thu thập, theo chúng tôi khó có thể ra một bản án hoàn toàn đúng qui định của pháp luật, có sức thuyết phục cao.
- Bất cập trình tự hỏi tại phiên tòa: Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành, việc hỏi tại phiên tòa đều được thực hiện theo thứ tự Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, rồi đến các Hội thẩm (hoặc Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử trong phiên tòa phúc thẩm), sau đó đến các thành phần khác như kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự… Việc quy định Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án theo thứ tự hỏi hợp lý và là người hỏi trước, đã đặt gần như toàn bộ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Hội đồng xét xử; dẫn đến thực tế Hội đồng xét xử hỏi để củng cố vững chắc quan điểm giải quyết vụ án đã chuẩn bị sẵn khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, làm cho việc hỏi của các đối tượng khác trong vụ án và việc tranh tung nhiều khi trở thành hình thức.
- Về quy định Tòa án xét xử liên tục trừ thời gian nghỉ: Theo quy định việc xét xử bằng lời nói và phải được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Hội đồng xét xử phải tuyên án ngay sau khi nghị án, vì vậy HĐXX (chủ tọa phiên tòa) không thể không chuẩn bị trước bản án, điều này mâu thuẫn với yêu cầu "việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo…để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục". Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bức xúc trong dư luận về tình trạng "án bỏ túi" trong hoạt động xét xử của Tòa án hiện nay.
- Về hoạt động của Viện kiểm sát tại phiên tòa hình sự sơ thẩm: Luật tố tụng hình sự hiện nay không quy định rõ là tại phiên tòa, Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng công tố, nên dẫn đến có quan điểm cho rằng: Tại phiên tòa, Viện kiểm sát thực hiện đồng thời hai chức năng là buộc tội và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án. Việc nhìn nhận Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và nhất là qui định Viện kiểm sát cấp sơ thẩm có quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật phần nào ảnh hưởng đến tâm lý của Hội đồng xét xử, ảnh hưởng đến tính bình đẳng của các bên trước Tòa án trong hoạt động tranh tụng. Trên thực tế không hiếm trường hợp, khi kiểm sát viên đề nghị mà không được Hội đồng xét xử chấp nhận thì lại "đe dọa kháng nghị”.
- Cơ sở vật chất, mô hình phòng xử án chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng: Mặc dù, cơ sở vật chất của các Tòa án hiện nay đã có những bước cải thiện nhất định, tuy nhiên nhìn chung hệ thống trụ sở Tòa án các cấp còn thiếu đồng bộ, công năng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu. Mặt khác, việc bố trí, sắp xếp chỗ ngồi trong phòng xử án hiện nay cũng chưa thực sự phù hợp với địa vị pháp lý của các bên trong tranh tụng.
Đổi mới tổ chức phiên tòa để thực hiện nguyên tắc "Tranh tụng trong hoạt động xét xử được đảm bảo" là một yêu cầu bức thiết. Để làm được điều đó, theo chúng tôi phải tiến hành một số vấn đề sau đây:
1. Luật hóa khái niệm tranh tụng và quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử, của việc tổ chức phiên tòa trong các văn bản pháp luật tố tụng. Trên cơ sở quy định “tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản” trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính để phân định rõ chức năng cơ bản của kiểm sát viên, luật sư và Thẩm phán trong quá trình tranh tụng và làm cơ sở cho việc vận hành của toàn bộ quá trình tố tụng, trong đó có các chủ thể tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
2. Quy định cụ thể về việc buộc người làm chứng nói riêng, người tham gia tố tụng nói chung phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án. Cần qui định chế tài cụ thể nếu người làm chứng không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án. Trước mắt, cần có sự phối hợp thật tốt với lực lượng cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp thực hiện việc áp giải người làm chứng trong trường hợp cần thiết. Trường hợp người làm chứng quan trọng không có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
3. Không quy định nguyên tắc xét xử liên tục; nghiên cứu thay thế nguyên tắc xét xử liên tục bằng nguyên tắc “Tòa án phải kịp thời ra phán quyết sau khi đã nghị án”, cho phép các Thẩm phán trong thời gian chuẩn bị bản án (sau khi nghị án) vẫn được tiến hành các hoạt động tố tụng đối với các vụ việc khác.
4. Sửa lại quy định của pháp luật tố tụng về trình tự hỏi tại phiên tòa; cụ thể: Quy định kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi trước, các thành viên của Hội đồng xét xử có thể hỏi ở bất kỳ thời điểm nào nếu xét thấy cần thiết nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án hoặc mang tính chất nêu vấn đề để các bên tập trung hỏi làm rõ. Sửa lại quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự khẳng định tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Viện kiểm sát không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp.
5. Trong hoạt động điều hành phiên tòa, Hội đồng xét xử là trọng tài của tranh tụng. Muốn thực hiện tốt vai trò này, đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán, phải không ngừng học tập, nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong quá trình tố tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần khách quan, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cả kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác (không hạn chế về thời gian).
6. Phải quán triệt để loại bỏ tâm lý ngại tranh luận của luật sư và của một bộ phận kiểm sát viên hiện nay. Hội đồng xét xử cần tập trung theo dõi phần tranh luận, cần thiết phải yêu cầu kiểm sát viên phải thực hiện việc tranh luận, đối đáp với luật sư đầy đủ các vấn đề được đưa ra để có căn cứ giải quyết vụ án.
7. Tăng cường đội ngũ luật sư, cán bộ trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được nhận sự trợ giúp pháp lý miễn phí. Đảm bảo tối thiểu trong các phiên tòa hình sự, các bị cáo bị xét xử theo khung hình phạt có mức cao nhất là tù chung thân phải có người bào chữa; trong các vụ án có người tham gia tố tụng là người có hoàn cảnh khó khăn, người dân tộc ít người, người sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa phải được trợ giúp pháp lý. Cần nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công.
8. Tăng cường, cải thiện cơ sở vật chất cho các phòng xử án hiện nay, đảm bảo sự tôn nghiêm, tính trang trọng của hoạt động xét xử; trước mắt cần trang bị tất cả các phòng xử án hệ thống tăng âm, trang bị micro cho Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng để thuận lợi cho các bên thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa. Cần nghiên cứu bố trí, sắp xếp lại chỗ ngồi của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, luật sư cho phù hợp với địa vị pháp lý của từng chủ thể trong hoạt động tố tụng. Hội đồng xét xử cần được bố trí ở vị trí cao nhất, trang trọng nhất, còn kiểm sát viên, luật sư ở vị trí ngang nhau để vừa đảm bảo sự bình đẳng, vừa đảm bảo vị thế của Hội đồng xét xử - là chủ thể duy nhất được quyền nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp.