Những người “gieo chữ” trong mây
Giáo dục - Ngày đăng : 07:04, 18/11/2016
Vừa làm cô, vừa làm… mẹ
Cheo leo trên vách núi, điểm trường lớp 1 cắm tại bản Nà Lìa nhỏ như một dấu chấm, tinh ý lắm mới nhận ra vì ở đó có cắm lá cờ đỏ sao vàng. Lớp có 8 em, chủ yếu là học sinh người dân tộc Tày. Xã Hữu Kiên, một trong những xã xa xôi, khó khăn bậc nhất của huyện Chi Lăng, Lạng Sơn, có tới 4 điểm trường như thế. Mỗi bản xa lại có một điểm trường.
Cách đây hơn 10 năm, khi mới nhận quyết định về đây công tác, ngoái nhìn về bốn phía đều thấy núi rừng vây bủa, cô giáo Hoàng Thị Hằng đã khóc liền suốt một tuần liền. Bản xa quá, heo hút quá, từ huyện vào tới mấy chục cây số, đường nhựa chỉ có một nửa, còn lại là đường mòn treo trên miệng vực, sóng điện thoại thì không có, Hằng như sống tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
Bản nhỏ chỉ có hơn 20 nóc nhà, chủ yếu là người Tày và người Nùng. Bà con mang đến gửi Hằng 8 đứa trẻ, đứa lớn nhất 8 tuổi, đứa nhỏ vừa đủ tuổi vào lớp 1, tất cả đều chưa đứa nào nói được tiếng phổ thông.
Mấy ngày đầu, công việc đầu tiên của Hằng tắm rửa, chải đầu, vệ sinh và dạy cho lũ trẻ bỏ thói quen dùng tay quệt mũi. Nhưng cũng chỉ vài hôm, đám học trò của Hằng đứa nhớ mẹ, đứa nhớ em đòi về, có hôm lớp còn đúng 3 em. Không nản chí, Hằng hỏi thăm đường rồi lặn lội đến từng nhà để vận động các em đi học.
Thấy cô giáo ân cần, gần gũi, lũ trẻ cũng dần “hợp tác”. Chúng bắt đầu chăm chỉ, chịu khó đến lớp thường xuyên hơn để bắt đầu học a, b, c. Con chữ cứ thế thầm dần vào bọn trẻ. Chừng hơn một tháng, học trò bám Hằng hơn bố mẹ, cô không còn phải tới từng nhà vận động….
Cô giáo Đặng Thị Huệ và học trò
Hằng kể: “Ngày đó, bản làng còn nghèo khó, đường xá đi lại khó khăn. Mỗi khi trời mưa, đường trơn trượt, gần như không thể đi được xe, chỉ có thể cuốc bộ. Ở đây, em không chỉ phải dạy chữ, gọi học sinh đi học mỗi ngày mà còn cùng người dân làm việc đồng, hướng dẫn người dân cách chăm con, vừa phải tranh thủ học tiếng dân tộc… Kể cả khi em lập gia đình, sinh con thì nhiều tối vẫn phải nhờ hàng xóm trông giúp để đi dạy xóa mù chữ cho đồng bào, có hôm đến tận 11 - 12 giờ khuya mới về. Từ lúc thằng bé nhà em lớn lên một chút thì gửi về xuôi cho bà ở dưới TP. Lạng Sơn trông hộ, chứ ở trên này điều kiện chăm sóc không có, nhìn con tội lắm. Nhưng gửi con về dưới đó mình cũng khổ, nhớ nhung dứt ruột. Ban ngày còn đỡ, vì có lũ học trò quấn quýt, chứ mỗi khi chiều xuống thì lại nhớ chồng, nhớ con anh ạ! Có dạo em đi lâu quá, về con nhất định không theo…”.
Trung bình mỗi năm, Hằng thường chỉ được về vài ngày để thăm chồng, thăm con. Mỗi kỳ nghỉ hè, được đoàn tụ với gia đình là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của cô. Chính vì lo sinh con sẽ vất vả cho chồng, cho gia đình, nên đứa con đầu đã gần vào lớp 1 mà cô vẫn chưa hề dám nghĩ đến chuyện mang thai đứa thứ 2, mặc dù gia đình hai bên đều thúc giục.
Bên cạnh chuyện gia đình, con cái, Hằng còn trăn trở về cuộc sống còn cơ cực, khốn khó của học sinh. Các em ở đây phần lớn đều có gia cảnh nghèo, ăn không đủ no, mùa rét không đủ áo ấm. Cô từng nhiều lần dùng đồng lương ít ỏi của mình mua sách vở và đồ dùng học tập, quyên góp quần áo, chăn màn cho học sinh, đến tận từng gia đình học sinh để tìm hiểu, động viên các em đi học. Đến nay, đã có nhiều thế hệ học sinh của cô trưởng thành, nên người.
Hằng bảo: “Ở đây việc quan trọng trước tiên đối với cô giáo là làm cho các em yêu thích lớp học, đồng thời dạy các em nói, nghe và hiểu được tiếng phổ thông. Để các em thường xuyên đến lớp, em chỉ có một phần công sức thôi, chứ đó là công sức của nhiều lớp thầy cô giáo đi trước đã bám trường, bám bản vận động người dân cho con em đi học. Chúng em bây giờ thấy “hạnh phúc” rồi, vì ngày nay trong bản đã có phong trào học, cha mẹ và các em học sinh đều có nguyện vọng cho con đến lớp”.
Thiếu, khó bủa vây
Cũng người miền xuôi lên vùng cao dạy học, nhưng cô giáo Đặng Thị Huệ lại may mắn hơn Hằng. Cô được ở cùng với chồng con. Huệ gốc gác ở Quảng Xương, Thanh Hóa lên Nghĩa Thuận, xã giáp biên của huyện Quản Bạ, Hà Giang, dạy học rồi lấy chồng người bản xứ. Giờ, khắp vùng biên viễn này, đồng bào vẫn thường kể cho khách nghe về chuyện tình đẹp giữa cô giáo Huệ với chàng trai người Nùng tên Sân Sài Sồ.
Trước Sân Sài Sồ làm đủ nghề từ làm ruộng, làm rẫy rồi đi buôn vặt. Nghề gì cũng lận đận cho đến khi anh quyết tâm đi học lại và thành thầy giáo. Huệ yêu chàng trai người Nùng này bởi cảm cái ý chí của anh và Sồ yêu Huệ cũng vì thương cô gái Kinh can đảm vác chữ lên non khai sáng giúp đồng bào.
Lúc đầu khi nghe chuyện tình của Huệ và Sồ bà con trong bản người Nùng Na Lình bàn tán ghê lắm. Chẳng biết cô giáo có nhập gia tùy tục với người Nùng được không? Cái tay nó nhỏ và mềm như những búp măng trúc mới mọc thế kia chẳng biết vác nổi cuốc, đeo nổi quẩy tấu lên nương không?... Tình yêu có lý lẽ của nó, Huệ và Sồ vẫn quyết định gắn bó suốt đời với nhau. Thời gian đã chứng minh “Cô giáo Kinh cũng biết... làm dâu”. Giờ thì bà con dân bản, nhà chồng đã hết lòng yêu quý Huệ.
Đường đến trường của thầy và trò điểm trường Nà Lìa
Ở đây, giữa vùng rặt người Mông, chẳng mấy ai nói nổi vài câu tiếng Kinh cho sõi nên nhiều khi Huệ vừa nhớ quê, nhớ mẹ, vừa nhớ cả tiếng phổ thông. Vì có khi cả tháng cô không được nghe, không được nói tiếng nói của mình. Nhiều lúc nhớ quá, muốn được nghe một hai câu giao tiếp, trò chuyện bằng tiếng Kinh, Huệ phải đi bộ vài tiếng đường núi ra tận trung tâm xã hay sang các điểm trường gần đó. Còn hàng ngày, cô vẫn tự lẩm bầm nói với bóng mình trên cái liếp tre bên ngọn đèn dầu lù mù khói.
Huệ kể, có lần cô đến một gia đình để vận động cho con đi học, nhưng ông bố, bà mẹ nhà đó nhất quyết không chịu. Họ muốn con mình ở nhà lấy củi, cắt cỏ bò bèn giấu biệt thằng lớn nơi xó buồng rồi lôi đứa em ra bảo: “Mày xem! Nó còn nhỏ lắm, cao chưa bằng cây ngô mới trồng hơn tháng, làm sao mà học được cái chữ? Nhìn thấy đứa bé cũng nhỏ thật, Huệ nghĩ “cơ sở” báo nhầm tuổi. Dù vẫn hồ nghi, nhưng cô vẫn phải nhỏ nhẻ xin phép ra về. Sau vài buổi đi lại, cô mới phát hiện nhà đó có hai đứa con trai. Hai anh em mặt mũi hai thằng giống nhau như tạc. Huệ đem chuyện đó hỏi thẳng phụ huynh. Lúc đầu họ cũng bối rối lắm nhưng cuối cùng trước sự phân tích kiểu “cái chữ cũng quan trọng chẳng kém gì bao ngô giống, cái quẩy tấu lúa” nên họ mới bị thuyết phục, đồng ý cho con đi học”.
Huệ bảo: “Khó khăn, gian khổ là thế, nhiều khi việc vận động đi học phải nhờ cả bộ đội biên phòng dẫn đường vì các anh quen với đồng bào, lại có cái sao, cái vạch trên vai, uy nghiêm, dễ bề ăn nói. Thuyết phục được đến trường rồi, làm thế nào để các em thích đi học hơn đánh quay, tung còn, ném pao, múa khèn lại càng là bài toán khó. Người Mông quen sống trên đỉnh núi cao chót vót, mùa khô, giọt nước quý hơn vàng nên vài tháng không tắm cũng là chuyện thường ngày ở huyện. Việc đầu tiên sau khi gom học sinh đến trường là các thầy cô phân công nhau bê từng chậu nước thật đầy nhất có thể, bảo các em xếp hàng rồi lần lượt người rửa tay, rửa mặt, người gội đầu, chải tóc cho các em. Lắm đứa, đầu đầy nhóc chấy”.
Nghĩa Thuận có tới 8 điểm trường, điểm trường xa nhất ngày nắng đi bộ từ trung tâm xã vào mất 4-5 tiếng, ngày mưa thì “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Từ đồn biên phòng Nghĩa Thuận, phải vượt đỉnh Phìn Chư, cao hơn 1.300m mới đến được điểm trường. Ở đây, rặt một đặc sản mây mù và những ngọn gió thổi u u suốt ngày đêm. Trường học và nhà ở của giáo viên đều được làm theo kiểu nhà trình tường, đất đắp dày cả nửa mét trông như lô cốt. Mỗi khi thấy người lạ, học sinh trong các lớp ùa ra, vây kín lối. Đứa nào, đứa nấy mặt mũi lấm lem, có em mặc độc chiếc áo cộc, bên dưới ở... chuồng dù mùa đông trên núi rét thấu xương.
Gian nhà ở của bốn cô giáo ở ngay sát lớp học. Trong ánh sáng le lói của cái lỗ thông hơi be bé, tôi nhìn thấy một chiếc phản rộng làm chỗ nghỉ, dưới gầm lô lốc xô chậu trữ nước. Mấy cô lâu lâu được nghỉ một vài ngày phép nhưng vì đường xá xa xôi nên chẳng về thăm gia đình nổi. Năm thì mười họa cũng có ông chồng sốt ruột chịu khó gùi hàng lên tiếp tế...
Cứ thế, năm này qua năm khác, những cô giáo như Hằng, như Huệ cùng hàng ngàn hàng vạn thầy cô giáo khác đã và đang lặng lẽ mang ngọn lửa tri thức thắp sáng vùng cao. Thật khó có thể nói hết những khó khăn và vất vả của những người thầy đó phải trải qua, nhưng vượt lên tất cả, họ vẫn đang từng ngày cần mẫn ở những bản làng vùng cao để gieo mầm cho những ước mơ. Bằng sự tận tâm, tận lực của mình, họ đã và đang làm cho cái chữ dần nảy mầm trong đá, trong mây.