Thủ tướng: Hoàn thiện cơ chế chính sách đồng bộ, đủ mạnh cho cơ khí phát triển

Chính trị - Ngày đăng : 16:02, 24/09/2019

Ghi nhận các ý kiến nêu về các bất cập thiếu vốn, thiếu thị trường, lãi suất cao chưa tạo điều kiện cho cơ khí phát triển, Thủ tướng nhấn mạnh, sẽ hoàn thiện thể chế cơ chế chính sách đồng bộ và đủ mạnh, đặc biệt chính sách nội địa hóa.

Thủ tướng: Hoàn thiện cơ chế chính sách đồng bộ, đủ mạnh cho cơ khí phát triển

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng cac đại biểu tham quan một số sản phẩm cơ khí trưng bày tại Hội nghị.

Sáng 24/9, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị về các giải pháp thúc đẩy phát triển ngành cơ khí Việt Nam.

Cùng dự có Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng và 350 đại biểu gồm lãnh đạo và đại diện các cơ quan Trung ương và địa phương, các đơn vị phối hợp, các DN, doanh nhân trên cả nước, các học giả đến từ các trường đại học uy tín trong và ngoài nước.

Có dấu hiệu phát triển chậm và còn nhiều hạn chế

Phát biểu khai mạc, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, Chính phủ đã triển khai nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ và ưu đãi để phát triển ngành cơ khí.

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cũng đã ban hành các kết luận, nghị quyết về định hướng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, trong đó trọng điểm là ngành cơ khí Việt Nam.

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, thời gian qua, ngành cơ khí trong nước đã có bước phát triển rất quan trọng. Số lượng DN cơ khí đang hoạt động và có kết quả kinh doanh chiếm gần 30% tổng số DN công nghiệp chế biến, chế tạo; tạo việc làm cho gần 16% tổng số lao động trong các DN ngành chế biến, chế tạo.

Quy mô, năng lực các DN cơ khí được nâng cao ở hầu hết các ngành cơ khí, từ chế tạo thiết bị toàn bộ, sản xuất, lắp ráp ô tô, sản xuất xe máy, chế tạo thiết bị thủy công, cho đến chế tạo thiết bị cho nhà máy nhiệt điện, thiết bị cho ngành xi măng và vật liệu xây dựng, thiết bị y tế, thiết bị điện, cơ khí nông nghiệp.

Đã hình thành hệ thống các nhà máy cơ khí với đủ các quy mô lớn nhỏ. Tại một số địa phương, vùng kinh tế đã hình thành mô hình cụm ngành về cơ khí chế tạo. Ngành cơ khí cũng đã hình thành một số DN có tiềm năng phát triển ngang tầm khu vực Một số sản phẩm cơ khí được sản xuất đã đạt chất lượng tốt, có thể tương đương với chất lượng sản phẩm của các quốc gia trong khu vực. Hiện nay, cơ khí Việt Nam có thế mạnh tập trung ở 3 phân ngành gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy, cơ khí gia dụng và dụng cụ, ô tô và phụ tùng ô tô. Số liệu thống kê cho thấy, 3 phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cơ khí cả nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng phải nhìn nhận một cách thực tế rằng ngành cơ khí nước ta đang có dấu hiệu phát triển chậm và còn nhiều hạn chế. Năng lực của ngành cơ khí nước ta còn thấp. Hiện tại, mới chỉ đáp ứng 32% nhu cầu sản phẩm cơ khí trong nước. Còn thiếu nhiều thương hiệu sản phẩm cơ khí trong nước.

Chất lượng sản phẩm cơ khí của DN nội nói chung còn thấp, giá thành sản xuất cao, thiếu sức cạnh tranh. Còn thiếu nhiều DN cơ khí lớn, mang tầm cỡ quốc tế, đóng vai trò dẫn dắt ngành cơ khí. Trình độ cơ khí chế tạo đặc biệt là cơ khí chính xác (là trụ cột của sản xuất công nghiệp) còn lạc hậu so với nhiều nước.

Cần có chiến lược cụ thể giữ thị trường cho DN trong nước phát triển

Theo các tham luận tại hội nghị, hiện nay, cơ khí Việt Nam có thế mạnh tập trung ở 3 phân ngành gồm: Xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy, cơ khí gia dụng và dụng cụ, ô tô và phụ tùng ô tô. 3 phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cơ khí cả nước.

Đơn cử, trong nước đã sản xuất được các loại thiết bị cơ khí thuỷ công cho các nhà máy thuỷ điện, dây chuyền thiết bị cán thép xây dựng công suất đến 30.000 tấn/năm, dây chuyền thiết bị đồng bộ cho nhà máy xi măng công suất đến 800.000 tấn/năm...

Hiện nay, trong nước có khoảng gần 40 DN sản xuất, lắp ráp ô tô, với tổng công suất lắp ráp thiết kế khoảng hơn 680.000 xe/năm. Tỷ lệ nội địa hoá các loại xe gắn máy đạt khoảng 85-95%.

Đặc biệt, ngành cơ khí dầu khí đã chế tạo thành công và bàn giao đi vào hoạt động giàn khoan tự nâng có độ sâu đến 90 m nước, thay thế cho việc nhập khẩu sản phẩm này từ nước ngoài. Đây là sản phẩm cơ khí chế tạo ứng dụng công nghệ cao lần đầu tiên được tổ chức sản xuất tại Việt Nam, với tỷ lệ nội địa hóa 35%.

Một số ý kiến cho rằng, tổng nhu cầu thị trường cơ khí của Việt Nam giai đoạn 2019-2030 có thể đạt 310 tỷ USD, trong khi đó ngành cơ khí mới chỉ đáp ứng khoảng hơn 32% nhu cầu. Theo số liệu sơ bộ, hàng năm Việt Nam nhập khẩu từ nước ngoài hàng chục tỷ USD trang thiết bị, máy, vật tư sản xuất cho toàn ngành kinh tế.

TS. Nguyễn Chỉ Sáng, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội DN Cơ khí Việt Nam (VAMI) cho biết, phát triển công nghiệp cơ khí sẽ đem lại lợi nhuận đến vài chục tỷ USD trong một, hai chục năm tới đặc biệt khi triển khai đầu tư các nhà máy công nghiệp, các công trình lớn của đất nước. Ví dụ, trước năm 2003, các sản phẩm cơ khí thủy công Việt Nam phải nhập từ Nga, Ukraine, Trung Quốc với giá trung bình 2.000 USD/tấn, khi chúng ta làm chủ thiết kế, chế tạo, giá thành trung binh giảm xuống dưới 1.500 USD/tấn.

Theo tính toán của các chuyên gia trong ngành nông nghiệp, mặc dù dung lượng thị trường cho máy và thiết bị phục vụ ngành nông nghiệp chỉ khoảng 500 triệu USD/năm, nhưng giá trị gia tăng cho các nông sản, thực phẩm do cơ giới hóa ngành có thể đạt 5 tỷ USD/năm.

Theo ý kiến một số DN, hiệp hội, Việt Nam hiện chỉ có khoảng 21.000 DN cơ khí nội địa (không tính DN FDI) đang sản xuất, kinh doanh để tồn tại và phát triển. Những DN cơ khí có số lượng lao động từ 500 người trở lên còn rất ít (chỉ khoảng 100 DN), còn lại đa phần là DN cơ khí có quy mô nhỏ. Với nguồn lực hạn chế về tài chính, công nghệ yếu, kinh nghiệm quản trị lạc hậu so với quốc tế, nhưng ngành cơ khí Việt Nam phải cạnh tranh trong một nền kinh tế thế giới hội nhập hoàn toàn như hiện nay. Nếu không có “bàn tay” hỗ trợ của Nhà nước, định hướng hỗ trợ của Nhà nước thì sẽ vô cùng khó khăn, nhất là ngành cơ khí là ngành có công nghệ rất khó, vốn đầu tư lớn mà thu hồi vốn lại chậm.

Cơ hội lớn nhất cho ngành Cơ khí Việt Nam là Chính phủ cần có chiến lược cụ thể để giữ được thị trường cho DN trong nước phát triển, đặc biệt là trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng của đất nước. Nếu đánh mất thị trường vào tay nước ngoài thì các DN trong nước sẽ rất khó có dư địa để phát triển, lãnh đạo Tổng công ty Cơ điện xây dựng góp ý.

Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho DN cơ khí

Ghi nhận các ý kiến đóng góp, Thủ tướng khẳng định, hội nghị sẽ có một sản phẩm là Nghị quyết của Chính phủ về giải pháp phát triển ngành cơ khí Việt Nam. Đây cũng là mong mỏi của các DN, những người làm trong ngành công nghiệp nền tảng, trụ cột, xương sống của nền kinh tế. Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương tiếp thu các ý kiến để có một nghị quyết tốt, mang hơi thở cuộc sống.

Cho rằng có một số mặt còn bất cập, tồn tại, “đuối sức”, Thủ tướng nêu rõ, phải đổi mới tư duy về sản xuất cơ khí, chống bao cấp, nhưng tạo mọi điều kiện về chính sách, kể cả chính sách đầu vào và đầu ra cho sản phẩm cơ khí Việt Nam.

“Trước hết chúng ta phải có khát vọng, tâm huyết với phát triển kinh tế Việt Nam, cơ khí Việt Nam để gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu”, Thủ tướng nói. Phải xác định thị trường rõ nét hơn, xác định phân khúc thị trường trong nước, ngoài nước, từ đó có các chính sách vĩ mô kèm theo, đặc biệt là chính sách thuế và lãi suất cho ngành cơ khí rõ hơn.

Chính sách phải “đi tắt đón đầu” để cơ khí phát huy lợi thế người đi sau trong bối cảnh hội nhập.

Ghi nhận các ý kiến nêu về các bất cập thiếu vốn, thiếu thị trường, lãi suất cao chưa tạo điều kiện cho cơ khí phát triển, Thủ tướng nhấn mạnh, sẽ hoàn thiện thể chế cơ chế chính sách đồng bộ và đủ mạnh, đặc biệt chính sách nội địa hóa.

Tạo dựng thị trường cho các DN cơ khí phát triển, trong đó Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho DN, thúc đẩy đội ngũ DN cơ khí. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ các DN trong nước tham gia nhiều hơn vào các công trình, dự án trong nước. Nghiên cứu ban hành các quy định đấu thầu nhằm nâng cao tỷ lệ sử dụng vật tư, hàng sản xuất trong nước để có thể tạo thị trường cho DN trong nước phát triển phù hợp với quy định hiện hành và thông lệ quốc tế.

Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư từ các DN cơ khí có tên tuổi trên thế giới để dần hình thành chuỗi cung ứng trong nước và tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu cho các DN cơ khí trong nước.

Triển khai các chương trình kết nối kinh doanh nhằm tăng cường liên kết, liên doanh giữa DN trong nước với nhau và với các DN lớn trên thế giới trong chuỗi giá trị để tiếp cận công nghệ và tiêu chuẩn hóa sản phẩm.

Cần xây dựng và phát triển hệ thống quản lý, đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ thuật nghề quốc gia, đặc biệt đối với các kỹ năng nghề trong lĩnh vực cơ khí. Thủ tướng lưu ý, hiện nay chúng ta đang thiếu nhân lực ngành cơ khí rất trầm trọng. Xây dựng đội ngũ doanh nhân cơ khí lớn mạnh có ý nghĩa quyết định. Đội ngũ DN ấy sẽ có bản lĩnh, khát vọng của người Việt Nam trên thương trường.

Giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện các quy định của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 50 của Bộ Chính trị. Khẩn trương ban hành hướng dẫn và chế tài cụ thể thực hiện chủ trương sử dụng vật tư hàng hóa sản xuất trong nước trong công tác đấu thầu.

Bộ Tài chính chủ trì nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện các chính sách thuế, phí hợp lý nhằm giúp các DN sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước nâng cao tỷ lệ giá trị nội địa, giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu nguyên chiếc, với thời hạn của chính sách là từ 5-10 năm. Đề xuất chính sách không áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với ô tô điện, ô tô thân thiện với môi trường.

Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành cơ khí phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước.

Xuân Lan