Doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận vốn vay NH: “Nghẽn” do đâu?
Doanh nghiệp - Doanh nhân - Ngày đăng : 08:41, 28/07/2017
Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong, vốn là một trong những điều kiện đầu vào rất quan trọng cho hoạt động của doanh nghiệp và việc tới trên dưới một nửa doanh nghiệp chưa tiếp cận được vốn vay ngân hàng thì rõ ràng đang có sự đứt quãng về nguồn lực và điều này sẽ có rất nhiều cái hệ lụy.
Nguyên nhân khó tiếp cận vốn vay
Tại tọa đàm do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức mới đây, ông Nguyễn Minh Phong đã chỉ ra 3 nguyên nhân khiến DN khó tiếp cận vốn tín dụng. Nguyên nhân đầu tiên là bản thân doanh nghiệp có thể có vốn tự có, hơn nữa lại là doanh nghiệp hoạt động nhỏ chưa có chiến lược hoạt động dài hạn và đã tự thoả mãn với nguồn vốn của chính mình. Nhiều hộ gia đình hoặc doanh nghiệp nhỏ thường thực hiện phương án này cho an toàn. Nguyên nhân thứ hai có thể là lãi vay (tuy đã hạ rồi) vẫn còn cao so với lãi mà họ có thể có, vì thế họ ngại không muốn tiếp cận vì lãi quá cao. Và nguyên nhân thứ ba là DN không đủ điều kiện bao gồm điều kiện thế chấp, không đủ điều kiện viết dự án tốt, rồi không tạo được lòng tin cho ngân hàng…
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cũng cho biết một số nguyên nhân của việc DN tư nhân khó tiếp cận vốn tín dụng. Nguyên nhân từ DN là do không chứng minh được hiệu quả sản xuất kinh doanh một cách rành mạch (quá khứ, hiện tại và cơ hội tương lai), phương án kinh doanh để vay vốn sức thuyết phục không cao, không thuyết phục được một cách rõ ràng. Về phía ngân hàng gần như là e sợ bị hình sự hoá. Vấn đề này đã có kiến nghị rồi, nếu cán bộ ngân hàng làm đúng quy trình, làm chuẩn, làm tốt rồi còn phía rủi ro do thị trường thì phải xem xét vấn đề này.
Khoảng 98% doanh nghiệp tư nhân trong DNNVV không tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Ảnh minh họa
Phân tích về hệ lụy của việc DN khó tiếp cận vốn vay, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong nhìn nhận vốn ngân hàng chi phối tới khoảng 80% và gần như 80% vốn của doanh nghiệp cũng do Ngân hàng cung ứng, và trong đó thì 80% thu nhập của Ngân hàng lại do nguồn tín dụng hoạt động truyền thống mang lại, nên tín dụng không tới được doanh nghiệp là ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống doanh nghiệp cũng như hệ thống ngân hàng. Ông cũng phân tích thêm đối với doanh nghiệp khi thiếu vốn thì sẽ không thể lớn lên được, không thể có vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật, để tăng sức cạnh tranh. Do đó, doanh nghiệp mãi bị nhỏ, lép vế và bị thu hẹp thị phần ở ngay trên sân nhà của mình.
“Ở góc độ vĩ mô, 97% trong hệ thống doanh nghiệp mãi mãi như vậy thì toàn bộ nền kinh tế rất khó có sự tái cơ cấu và nền kinh tế sẽ giảm sức cạnh tranh, khó có một sự tăng tốc tốt trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu này. Đối với các Ngân hàng, khi không cho vay được cũng sẽ bị giảm thị phần, giảm doanh thu. Đối với xã hội, việc doanh nghiệp không lớn lên được, nền kinh tế không phát triển tốt hơn thì sẽ ảnh hưởng tới việc làm, tới nguồn thu ngân sách và tới vị thế của kinh tế Quốc gia”, ông Phong nhấn mạnh.
Còn theo ông Nam, khoảng 98% doanh nghiệp tư nhân trong doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn. Có nhu cầu kinh doanh, doanh nghiệp chỉ có 2 kênh để huy động: một là vốn tích luỹ từ quá trình kinh doanh, hai là vay của người thân. Nhưng hai kênh này không thể đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh. Một kênh nữa là vay ở ngoài nhưng kênh này quá rủi do, lãi xuất quá cao. Chính vì thế mà các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam không tăng trưởng được, một phần là do không tiếp cận được với các nguồn vốn chính thống của ngân hàng, đây là hạn chế.
Cần thay đổi tư duy
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là một trong 5 lĩnh vực ưu tiên mà Ngân hàng nhà nước (NHNN) chỉ đạo các tổ chức tín dụng phải đáp ứng đầy đủ các nhu cầu vốn, NHNN cũng chỉ đạo giảm lãi suất trần cho vay đối với lĩnh vực này. Theo ông Trần Văn Tần, Phó Vụ trưởng Vụ tín dụng các ngành kinh tế Ngân hàng Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân là đối tượng khách hàng quan trọng của các tổ chức tín dụng với dư nợ hiện nay gần 4 triệu tỉ đồng, và hàng triệu khách hàng đang còn dư nợ.
Cụ thể, từ năm 2014 tỉ lệ cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 53%; năm 2015 tăng 62% và tính đến tháng 4/2017 là 66%; tín dụng ngân hàng có một vai trò hết sức quan trọng và đóng góp tích cực vào sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, để duy trì tỉ trọng GDP của khu vực này ở mức là từ 39 đến 40%.
"Một số doanh nghiệp tư nhân chưa tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng thì nguyên nhân chủ yếu là do một số doanh nghiệp năng lực quản trị và khả năng tài chính còn hạn chế, báo cáo tài chính còn chưa được kiểm toán và không công khai minh bạch để làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng thẩm định để quyết định cho vay”, ông Tần nhận xét.
Ông Tần cũng cho biết ngân hàng đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền ở các địa phương tích cực triển khai các chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Trong đó, các hội nghị triển khai chương trình này đều có sự tham gia của chính quyền địa phương, các sở, ngành để cùng xem xét giải quyết. Bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự cố gắng nâng cao khả năng tài chính, các thông tin phải minh bạch…
Ông Tô Hoài Nam lại cho rằng dù ngân hàng đưa ra rất nhiều biện pháp nhưng đầu tiên là phải thay đổi triệt để tư duy, coi khu vực 70% không tiếp cận được vốn, không đáp ứng được điều kiện vay đừng nhìn họ là chỗ rủi ro mà nên lọc ra trong đó độ 10% nhìn thấy tiềm năng để tăng trưởng tín dụng của ngân hàng, bởi vì hai bên quan hệ với nhau thì phải đảm bảo nguyên tắc là công bằng. NH cho DN vay thì được phần lãi và cũng phải chấp nhận một phần rủi ro. Ngân hàng cũng nên thiết kế lại điều kiện cho doanh nghiệp vay cho phù hợp, ngân hàng phải tăng cường hỗ trợ cho doanh nghiệp những điểm mà doanh nghiệp còn hạn chế.
Ông Nam cũng nhìn nhận hiện nay ngân hàng thương mại không gây khó cho doanh nghiệp để đòi hỏi, bắt bẻ mà là còn nhiều e ngại, không dám đột phá. Để tháo gỡ khó khăn cho DN vừa và nhỏ trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, ông Nam đề xuất NHNN nên nghiên cứu các chính sách để làm sao các NHTM có thể chủ động nhiều hơn nữa trong việc tiếp cận vốn từ các dự án quốc tế, đặc biệt là các dự án hỗ trợ. Việc này sẽ giúp có thêm các nguồn vốn khác, thường có lãi suất thấp, thời gian cho vay dài hơn để đáp ứng nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp; Quan tâm hơn đến cho vay tín chấp thông qua hoạt động của các quỹ trong đó có quỹ bảo lãnh tín dụng để tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp hơn được tiếp cận với vốn ngân hàng.