Tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Chính trị - Ngày đăng : 06:00, 30/04/2017

Như thực tế lịch sử đã chứng tỏ, tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh không bao giờ tách rời ý niệm và ý chí về sự toàn vẹn của một nước Việt Nam thống nhất.

Trên bình diện lý luận và trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, tư tưởng độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ của Hồ Chí Minh luôn soi sáng con đường giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Tổ quốc Việt Nam.

Tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng độc lập, tự do

Cuối thế kỷ XIX, trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Ái Quốc, cũng như lớp tinh hoa của dân tộc, đã ra đi tìm đường cứu nước. Trong những năm bôn ba ở hải ngoại, Người đã nhìn thấy nỗi đau mất nước, nỗi thống khổ bị xâm lược, bị đô hộ và bóc lột không chỉ của nhân dân Việt Nam, mà còn của rất nhiều dân tộc phụ thuộc, nô lệ khác trên thế giới. Từ đó, Người hiểu rằng, độc lập, tự do là khát vọng của mọi con người, của mọi dân tộc bị áp bức? Cũng chính từ đó, Người chỉ có “một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Và ý chí giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, cho dân tộc, cho nhân dân mình đã trở thành phương châm chỉ đạo toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Người.

Trong quá trình tìm đường cứu nước và giải phóng dân tộc, khi gặp Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc nhận ra: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Thông qua các hoạt động thực tiễn của mình, Người đã từng bước vận dụng sáng tạo những tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện và phát triển những luận điểm của mình về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, mà trong đó tư tưởng độc lập, tự do là ngọn cờ hiệu triệu, tập hợp lực lượng, tập hợp sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước và giải phóng triệt để con người.

Tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh được đúc kết “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân - tư tưởng đó kết tinh của những khát vọng cháy bỏng và cũng là mục tiêu cốt tử mà những dân tộc, những con người bị áp bức, bị phụ thuộc trong trường kỳ đấu tranh luôn luôn hướng tới.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập, tự do không thể tách rời với sự thống nhất đất nước, với non sông liền một mối. Khi tiếng súng kháng chiến của nhân dân Nam Bộ vang lên, Hồ Chí Minh đã khẳng định với toàn thể dân tộc Việt Nam, với lương tri thế giới: “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.

Với Người, đất nước, núi sông Việt Nam là một khối thống nhất, Bắc - Trung - Nam không thể phân chia, kết đoàn ba miền như con một cha, nhà một nóc, no đói, rách lành sẻ chia, đùm bọc, “không ai có thể chia rẽ nước Việt Nam ta...” và Người đặt cả tâm trí mình “luôn luôn bên cạnh mấy triệu đồng bào quyết chiến đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho nền độc lập Việt Nam, để tỏ rõ cho toàn cầu biết rằng dân tộc Việt Nam đầy đủ tinh thần hy sinh chiến đấu...”.

Trái tim của vị lãnh tụ đã cùng một nhịp đập với hàng triệu con tim của mọi người Việt Nam yêu nước. Một nước Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là ý chí, là nguyện vọng của toàn dân Việt Nam. Mục tiêu và ý chí đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, kết thành sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm cho đất nước đương đầu và vượt qua bao thử thách lớn lao. Nói cách khác, tư tưởng độc lập, tự do và ý chí thống nhất Tổ quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam là nhân tố nền tảng tạo ra và nhân lên sức mạnh to lớn đánh bại ý chí của kẻ thù xâm lược.

Niềm tin chiến thắng

Hòa bình lập lại trên miền Bắc nhưng trái tim Hồ Chí Minh chưa phút nào yên, vì miền Nam còn bị quân thù giày xéo. Người luôn trăn trở khôn nguôi về miền Nam, về sự nghiệp giải phóng đất nước vẫn còn chưa hoàn tất: “Trái tim của tôi và 17 triệu đồng bào miền Bắc luôn luôn đập một nhịp với trái tim của đồng bào miền Nam,... không một giờ, một phút nào không nhớ đến đồng bào ruột thịt ở miền Nam đang chiến đấu anh dũng chống bọn Mỹ - Diệm để cứu nước cứu nhà”.

Giải phóng miền Nam thống nhất non sông giờ đây trở thành mục tiêu hàng đầu của mọi người Việt Nam yêu nước thương nòi và đó cũng chính là quyết tâm không lay chuyển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. “Tôi thề cùng các bạn giữ vững nền độc lập tự do của nước Việt Nam. Dẫu có phải hy sinh... ta cũng quyết hy sinh. Cuộc kháng chiến tự vệ chính nghĩa của dân tộc Việt Nam phải toàn thắng”; “Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối toàn dân đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”; “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”.

Cả dân tộc cùng với Hồ Chí Minh đã không hề nao núng trước khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh, kiên định con đường độc lập, tự do, thống nhất đất nước đã lựa chọn tươi sáng: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa... song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Đau đáu về miền Nam, về sự nghiệp thống nhất nước nhà, một ngày đất nước chưa thống nhất, một ngày miền Nam chưa được giải phóng là một ngày Người ăn chưa ngon, ngủ chưa yên. Người chưa thể vui khi một nửa cơ thể Việt Nam bị cắt chia, khi một nửa máu của máu Việt Nam chưa hòa về một mối. Người xin tạm hoãn việc trao tặng Huân chương Lênin - Huân chương cao quý nhất của Liên Xô, khi Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô quyết định tặng Người nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, vì đất nước chưa được độc lập, đồng bào miền Nam vẫn khổ đau, rên xiết dưới ách kẻ thù: “Đến ngày nhân dân chúng tôi đánh đuổi được bọn đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam, tôi sẽ đại biểu cho toàn thể đồng bào tôi, trân trọng và vui mừng lãnh lấy Huân chương mang tên Lênin vĩ đại”.

Tương tự, khi Quốc hội nước ta quyết định trao tặng Người Huân chương Sao vàng (tháng 5-1968), Người đã chối từ với tới tâm sự làm xúc động triệu triệu con tim: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.

Với tình cảm sâu nặng, thiết tha “miền Nam trong trái tim tôi”, ngay từ những ngày đầu tiên về lại Thủ đô, Người lập tức chỉ đạo tập trung củng cố miền Bắc về mọi mặt cho cuộc đấu tranh lâu dài, thống nhất đất nước, vì “Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta”. Hồ Chí Minh luôn khẳng định nhiệm vụ trung tâm, trọng yếu của cách mạng Việt Nam: “Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”, “phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.

Người kêu gọi: “Tất cả chúng ta hãy đoàn kết nhất trí triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!”.  Cho đến những ngày sắp đi xa, Người vẫn giữ một niềm tin sắt đá: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Niềm tin ấy, khát vọng ấy thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt - “thành đồng Tổ quốc” và trở thành sự thôi thúc trong tâm khảm mỗi người dân hai miền đất nước cùng phấn đấu cho ngày mai thống nhất nước nhà. Đó cũng là động lực mạnh mẽ cho toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khó khăn, lâu dài, gian khổ, song nhất định thắng lợi.

Được soi sáng bởi tư tưởng độc lập, tự do, thống nhất non sông của Hồ Chí Minh; được củng cố bằng niềm tin thắng lợi không gì lay chuyển được cuộc chiến đấu bền bỉ và anh dũng của quân và dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc trong những tháng năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước rực lửa biểu thị ý chí, nghị lực, sức mạnh quật cường của cả một dân tộc.

Sức mạnh to lớn của toàn dân, toàn quân Việt Nam dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nên những chiến công vang dội: Tết Mậu Thân 1968, cuộc Tiến công chiến lược năm 1972, “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972. Những chiến công ấy của quân và dân ta làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đối phương, buộc đối phương dù còn rất ngoan cố và rất hiếu chiến vẫn phải ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam...

Sau Hiệp định Pari, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc đang chuyển biến mau lẹ, “một ngày bằng hai mươi năm”. Chớp thời cơ chiến lược, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên sức mạnh cao nhất của cả nước, kiên quyết giải phóng hoàn toàn miền Nam. Hướng ra tiền tuyến lớn, miền Bắc dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn của mình cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy.

Trên chiến trường, quân dân ta mưu trí, dũng mãnh tiến công. 11 giờ 30 phút trưa 30/4/1975, lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên nóc phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn, báo hiệu chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ kính yêu toàn thắng, sự nghiệp giải phóng miền Nam toàn thắng. Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam về một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sau những năm dài trường kỳ kháng chiến đã trở thành hiện thực.

P.V