Vấn đề quan tâm

Đề xuất giao kết và thực hiện thông qua hợp đồng lao động điện tử

Nguyễn Cúc 03/11/2025 - 13:15

Bộ Nội vụ đang xây dựng dự thảo Nghị định quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng lao động điện tử; việc xây dựng, cập nhật, duy trì, khai thác và sử dụng Nền tảng hợp đồng lao động điện tử.

Theo dự thảo, Nghị định áp dụng đối với người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) theo quy định của Bộ luật Lao động khi tham gia giao kết, thực hiện hợp đồng lao động (HĐLĐ) điện tử; các nhà cung cấp dịch vụ HĐLĐ điện tử; cùng các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.

Dự thảo nêu rõ, HĐLĐ điện tử là hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Việc triển khai được thực hiện trên Nền tảng HĐLĐ điện tử — hệ thống thông tin quy mô lớn do Bộ Nội vụ quản lý, có chức năng lưu trữ tập trung dữ liệu HĐLĐ trên phạm vi cả nước, đồng thời cung cấp các dịch vụ dùng chung cho cơ quan nhà nước, NSDLĐ và NLĐ.

hop-dong-dien-tu-1-1.jpg
Ảnh minh họa

Hệ thống phần mềm giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử (gọi tắt là eContract) cho phép hai bên tạo lập, ký số, lưu trữ, truy xuất, quản lý hợp đồng và thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tình hình sử dụng lao động theo quy định. Mỗi hợp đồng sẽ được gắn một mã định danh duy nhất (ID) do Nền tảng cấp, đảm bảo khả năng truy xuất và quản lý thống nhất.

Về nguyên tắc, việc giao kết và thực hiện HĐLĐ điện tử phải tuân thủ quy định của pháp luật về lao động, giao dịch điện tử, bảo mật dữ liệu và an toàn thông tin mạng. HĐLĐ điện tử có giá trị pháp lý như hợp đồng bằng văn bản giấy và không bị phủ nhận chỉ vì được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu. Hai bên phải nhận được bản hợp đồng thông qua phương tiện điện tử phù hợp theo thỏa thuận.

Dự thảo cũng khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp sử dụng tối đa HĐLĐ điện tử thay thế hợp đồng giấy trong quản trị nhân sự và các thủ tục hành chính có liên quan.

Các chủ thể tham gia hoạt động giao kết HĐLĐ điện tử gồm NLĐ, NSDLĐ có thẩm quyền ký kết theo quy định của Bộ luật Lao động, cùng các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ eContract đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật.

Phần mềm eContract phải đáp ứng yêu cầu về bảo mật và kỹ thuật theo quy định tại Nghị định số 23/2025/NĐ-CP về chữ ký điện tử và dịch vụ tin cậy; có phương án đảm bảo lưu trữ, bảo toàn dữ liệu; hỗ trợ xác thực định danh điện tử NLĐ và NSDLĐ thông qua Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; kết nối với Nền tảng HĐLĐ điện tử qua giao diện lập trình ứng dụng tiêu chuẩn (API); đồng thời hỗ trợ NSDLĐ báo cáo tình hình sử dụng lao động theo định dạng thống nhất.

NLĐ và NSDLĐ khi giao kết hợp đồng điện tử phải có tài khoản định danh điện tử hợp lệ và chứng thư chữ ký số còn hiệu lực hoặc chữ ký điện tử khác theo quy định của pháp luật. Hợp đồng chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm bên sau cùng ký, trừ khi hai bên có thỏa thuận khác.

Trường hợp cần sửa đổi, bổ sung, tạm hoãn hoặc chấm dứt HĐLĐ điện tử, các bên thực hiện tương tự quy trình giao kết hợp đồng mới. Với hợp đồng bằng văn bản giấy, nếu muốn chuyển sang hình thức điện tử, cần được chuyển đổi theo quy định của Luật Giao dịch điện tử và gắn mã định danh ID để đảm bảo thống nhất, toàn vẹn dữ liệu.

Mọi văn bản điện tử liên quan đến sửa đổi, bổ sung, tạm hoãn hoặc chấm dứt hợp đồng đều phải được gắn cùng mã ID của hợp đồng gốc nhằm đảm bảo khả năng truy xuất lịch sử giao dịch và bảo vệ quyền lợi các bên.

Dự thảo Nghị định cũng nghiêm cấm hành vi truy cập trái phép Nền tảng HĐLĐ điện tử, cố ý làm lộ dữ liệu hoặc vi phạm quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, bí mật nhà nước và các hành vi bị cấm khác theo Luật Giao dịch điện tử và Luật Dữ liệu.

Bộ Nội vụ cho biết, qua quá trình theo dõi, đánh giá 05 năm thực hiện Bộ luật Lao động năm 2019 cho thấy, việc giao kết HĐLĐ điện tử đã tạo rất nhiều thuận lợi cho NLĐ và NSDLĐ đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (tăng tính linh hoạt về không gian, thời gian trong giao kết hợp đồng; tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân lực trong việc soạn thảo, trình ký hợp đồng, quản lý và lưu trữ hồ sơ; tăng hiệu quả quản lý, quản trị của doanh nghiệp; tăng mức độ an toàn, bảo mật thông tin HĐLĐ...).

Đây là quy định tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển của công nghệ số hiện nay, đáp ứng yêu cầu tất yếu trong tương lai của Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Tuy nhiên, quá trình triển khai giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử cũng gặp một số vướng mắc, khó khăn như: (i) chưa có hướng dẫn cụ thể về sửa đổi, bổ sung, chấm dứt HĐLĐ điện tử; (ii) thiếu quy định liên quan đến điều kiện có hiệu lực của HĐLĐ bằng phương thức điện tử do có sự khác biệt với hình thức truyền thống; (iii) việc công nhận giá trị pháp lý và sử dụng HĐLĐ điện tử khi giao dịch với bên thứ ba (cơ quan thuế, bảo hiểm xã hội, ngân hàng…) còn gặp nhiều bất cập và hạn chế, điều này phần nào ảnh hưởng đến nhu cầu giao kết HĐLĐ điện tử của doanh nghiệp và NLĐ. Do đó, đa số các doanh nghiệp đều đề xuất cơ quan quản lý nhà nước ban hành hướng dẫn cụ thể về giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử để việc áp dụng quy định được triển khai đồng bộ và thuận lợi.

NSDLĐ, cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương hiện đang thực hiện trách nhiệm báo cáo thuộc lĩnh vực lao động chủ yếu bằng phương thức văn bản (báo cáo hành chính truyền thống); cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động ở Trung ương và địa phương chưa có cơ sở dữ liệu ngành về lao động, quan hệ lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội; các thông tin, dữ liệu về doanh nghiệp, NLĐ đang phân tán, chưa tập trung và không có sự liên thông, kết nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước của từng ngành, lĩnh vực với nhau. Do đó, việc cập nhật thông tin, theo dõi, quản lý dữ liệu về NSDLĐ và NLĐ để phân tích tình hình biến động về ao động, tiền lương trên thực tế còn gặp khó khăn và hạn chế.

Cùng với đó, hiện nay, chưa có số liệu thống kê chính thức từ phía cơ quan nhà nước về HĐLĐ điện tử. Một số thông tin thu được qua hệ thống các doanh nghiệp công nghệ cung cấp phần mềm HĐLĐ điện tử cho thấy có khoảng 21 doanh nghiệp công nghệ đang tham gia vào lĩnh vực này, theo báo cáo của một doanh nghiệp thì phần mềm HĐLĐ điện tử của doanh nghiệp này đang phục vụ 17.230 NSDLĐ, hàng tháng phát sinh hơn 2,5 triệu HĐLĐ, tăng trưởng so với năm 2021 khá lớn, ước tính gần 100% mỗi năm. Điều này cho thấy xu hướng phát triển nhanh chóng của HĐLĐ điện tử thời gian qua, tuy nhiên số lượng doanh nghiệp sử dụng HĐLĐ điện tử và giao dịch về HĐLĐ điện tử vẫn còn chưa tương xứng với quy mô lao động và nNSDLĐ tham gia thị trường lao động hiện nay.

Trên thị trường Việt Nam có nhiều doanh nghiệp công nghệ cung cấp phần mềm giao kết HĐLĐ (như VNPT, FPT, Viettel, EFY…) với một quy trình riêng tùy theo điều kiện về hạ tầng, nền tảng công nghệ, là một sản phẩm phần mềm thương mại hóa; các trường thông tin, các chức năng của các phần mềm nêu trên chưa hỗ trợ người dùng, đặc biệt chưa hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước, không có chức năng báo cáo thống kê, hỗ trợ phân tích dự báo và hoạch định chính sách. Ngoài ra, các phần mềm này chưa hỗ trợ quản lý giao dịch điện tử về HĐLĐ phát sinh trên phạm vi toàn quốc, NSDLĐ và NLĐ có giao kết HĐLĐ điện tử theo tỉnh/thành phố cũng như không được hỗ trợ kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, chưa có tính năng, chức năng phục vụ tra cứu về HĐLĐ điện tử của các tổ chức, cá nhân có liên quan khi có sự cho phép của chủ thể giao kết HĐLĐ điện tử. Do đó, có thể thấy các sản phẩm trên thị trường đều là phần mềm công nghệ thông tin cung cấp dịch vụ ký kết HĐLĐ giữa NSDLĐ và NLĐ (chủ yếu phục vụ mục đích quản trị nội bộ của doanh nghiệp); chưa có Nền tảng HĐLĐ điện tử tập trung, thống nhất do nhà nước quản lý, hình thành cơ sở dữ liệu về HĐLĐ, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm xã hội và các hệ thống thông tin khác theo yêu cầu quản lý nhà nước.

Tại Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ giao Bộ Nội vụ xây dựng nền tảng HĐLĐ điện tử, hoàn thành kết nối với Đề án 06, điều này đòi hỏi phải có các quy định về xây dựng, quản lý, duy trì, khai thác và sử dụng thông tin trong Nền tảng HĐLĐ điện tử; bảo đảm được khả năng tích hợp, kết nối, liên thông, chia sẻ thông tin, dữ liệu phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử; đặt ra trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị cá nhân có liên quan trong việc vận hành, quản lý Nền tảng, đặc biệt là việc kết nối, chia sẻ liên thông dữ liệu giữa các Bộ, ngành quản lý nhà nước để đảm bảo tính hiệu quả, bền vững, bảo mật an toàn thông tin theo quy định. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về vấn đề nêu trên nên chưa có đủ cơ sở pháp lý khi đưa nền tảng vào vận hành, khai thác, quản lý trong thời gian tới.

Nguyễn Cúc