Cải cách tư pháp

Chuyển đổi số Tòa án giúp cải thiện khả năng tiếp cận công lý của người dân

Đăng Nguyên 11/09/2025 - 14:24

Tiếp cận công lý không chỉ là một trong những quyền cơ bản của con người, được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận mà còn là nền tảng của một xã hội dân chủ, công bằng và sự vững mạnh của nền tư pháp quốc gia.

Hoạt động tư pháp mà trong đó Tòa án giữ vị trí trung tâm và công tác xét xử là hoạt động trọng tâm cần phải được tiếp tục cải cách, nâng cao chất lượng, bảo đảm có hiệu lực và hiệu quả cao.

Bảo đảm mọi người dân đều có khả năng tiếp cận công lý

Ở Việt Nam, công lý và bảo vệ công lý là mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã khẳng định yêu cầu xây dựng cơ quan tư pháp là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý và quyền con người. Ngoài ra, Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng xác định rõ mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh và bảo vệ công lý.

1(1).jpg
Phiên tòa xét xử trực tuyến tại Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.

Nội dung của quyền tiếp cận công lý thể hiện ở việc bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản về tố tụng đã được luật nhân quyền quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận, trước hết là quyền được xét xử, xét xử kịp thời và quyền bình đẳng trước pháp luật và Tòa án. Hoạt động xét xử không chỉ cung cấp tri thức pháp luật cho những người tham gia tố tụng tư pháp mà còn hướng dẫn họ cách thức thực hành pháp luật. Hoạt động xét xử trở thành một trong những hình thức tuyên truyền và giáo dục pháp luật hữu hiệu trong đời sống xã hội.

Để tiếp cận công lý, người dân cần phải có được những phương tiện nhất định. Nhà nước phải đảm bảo quyền tiếp cận công lý cho người dân,điều đó thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Người dân có quyền yêu cầu Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nước khi có tranh chấp hoặc xử lý vi phạm pháp luật.

Có thể nói, Hiến pháp và pháp luật hiện hành đã quy định cho người dân nhiều quyền để tiếp cận công lý một cách thuận lợi. Các quyền đó được thực hiện bởi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, một hệ thống tư pháp công bằng, công khai, minh bạch, hiệu quả với những nguyên tắc dân chủ như: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm…

Tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân tiếp cận công lý

Trong bối cảnh hội nhập sâu sắc và nhu cầu xây dựng thể chế tố tụng điện tử cũng như sự phát triển công nghệ số trong những năm gần đây, việc thúc đẩy quyền tiếp cận công lý đóng vai trò thiết thực và phù hợp với xã hội hiện đại. Việc này một mặt đảm bảo cho cá nhân, tổ chức dễ dàng thực hiện quyền tiếp cận công lý hơn, mặt khác giúp cho hoạt động của Tòa án được giảm tải và nâng cao trải nghiệm dịch vụ công, chẳng hạn như một số thủ tục tố tụng được thực hiện trực tuyến.

Cụ thể, tại giai đoạn nộp đơn khởi kiện, người dân có thể nộp đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ và nhận các văn bản, thông báo tố tụng trực tuyến thông qua cổng dịch vụ công quốc gia. Các quy trình tố tụng khác như quy trình tống đạt văn bản tố tụng, nộp án phí, nhận kết quả giải quyết được số hóa toàn diện, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và giảm áp lực hành chính.

Ghi nhận từ thực tiễn tại các địa phương cho thấy rằng người dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, đánh giá cao các tiện ích được cung cấp qua nền tảng số, từ đó cho thấy bước đầu của một nền tư pháp thân thiện và dễ tiếp cận hơn.

Công khai là thuộc tính của hoạt động xét xử, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, là phương thức hữu hiệu để kiểm soát quyền lực, đồng thời là cơ chế đề cao trách nhiệm của Thẩm phán trong thực thi quyền tư pháp. Với ý nghĩa như vậy, công khai trong hoạt động của Tòa án là nguyên tắc căn cốt đã được quy định trong Hiến pháp.

Theo đó, trên nền tảng số, Tòa án tập trung vào nhu cầu tư pháp của người dân để kịp thời cung cấp thông tin tư pháp mà đương sự và công chúng quan tâm, đồng thời thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng sự cởi mở của tư pháp nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân và đảm bảo sự tham gia của công chúng. Cùng với việc sử dụng chữ ký số, công khai bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử, ngành Tòa án đang hiện thực hóa mục tiêu minh bạch hóa tư pháp. Theo số liệu thống kê, đến nay đã có trên 1,7 triệu bản án, quyết định được công bố, phục vụ gần 330 triệu lượt truy cập đọc, tra cứu, khai thác thông tin.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác xét xử, sự ra đời của Nghị quyết số 33 tạo ra một phương thức mới trong việc tổ chức công tác xét xử của Tòa án, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và cam kết quốc tế; thể hiện việc thích ứng và bắt kịp với các giá trị của nền tư pháp văn minh trong thời đại số và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay.

2(1).jpg
Không chỉ trong nội bộ Tòa án, đương sự tham gia các vụ kiện cũng sẽ được quyền mở tài khoản để theo dõi tiến trình tố tụng.

Theo thống kê, tính từ ngày 01/01/2022 đến nay, các Tòa án đã phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức xét xử trực tuyến được gần 20 nghìn vụ án. Việc triển khai các phiên tòa xét xử theo hình thức trực tuyến trong nhiều trường hợp đảm bảo tính nhân văn trong quá trình giải quyết vụ án (đối với vụ án hình sự có liên quan đến tội phạm xâm hại tình dục hoặc bị hại là trẻ em thì người bị hại không cần xuất hiện trực tiếp tại phiên tòa) giúp người dân dễ dàng tiếp cận công lý và đảm bảo các hoạt động xét xử được tổ chức đúng thời hạn luật định; tiết kiệm được các chi phí; thuận lợi cho việc bảo vệ phiên tòa;...

Đối với việc hỗ trợ cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án trong công tác xét xử, phần mềm “Trợ lý ảo” đã được triển khai một cách hiệu quả và bước đầu thành công. Phần mềm “Trợ lý ảo” được phát triển thông minh để cung cấp các tính năng nâng cao giúp Thẩm phán và thư ký tòa án tự động hóa nhiều công việc như soạn thảo văn bản tố tụng, kiểm tra lỗi chính tả, mã hóa bản án và tra cứu văn bản pháp luật một cách nhanh chóng. Điều này không chỉ giảm tải khối lượng công việc, giúp Thẩm phán tập trung hơn vào việc xem xét nội dung vụ án mà còn hạn chế sai sót, đảm bảo tính chính xác trong hoạt động xét xử. Đặc biệt, “Trợ lý ảo” còn có khả năng phân tích vụ án, tham chiếu án lệ và phát hiện lỗi logic trong các bản án, từ đó hỗ trợ Thẩm phán đưa ra các quyết định công bằng hơn.

Song song đó, mô hình quản lý hồ sơ số, lưu trữ điện tử đang được đẩy mạnh triển khai. Hệ thống kho lưu trữ dữ liệu điện tử dùng chung giúp giảm chi phí vận hành, tối ưu không gian và tạo điều kiện truy xuất nhanh chóng cho người dân và cán bộ ngành.

Đặc biệt, Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng cơ sở dữ liệu liên ngành, kết nối với Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án dân sự, hệ thống quản lý cư trú…, hướng tới một hệ sinh thái tư pháp số toàn diện và đồng bộ.

Phát triển Tòa án điện tử là xu thế tất yếu trong “thời đại số” hiện nay để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và bắt kịp với nền tư pháp văn minh của thế giới; giúp người dân được thụ hưởng một nền tư pháp văn minh, hiện đại, các hoạt động tố tụng và phán quyết của Tòa án được công khai minh bạch để người dân tiếp cận thông tin và giám sát hoạt động tư pháp; ít phải trực tiếp đến Tòa án mà có thể thực hiện các hoạt động tố tụng qua các giao thức điện tử, bảo đảm tư pháp không chậm trễ; tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân. Kết quả trên thể hiện quyết tâm chính trị cao, nỗ lực hành động toàn diện của Tòa án nhân dân tối cao nhằm thực hiện thành công các nhiệm vụ chuyển đổi số, góp phần tạo ra những chuyển biến căn bản trong phương thức thực thi công lý, phù hợp với định hướng của Đảng và kỳ vọng của nhân dân.

Đăng Nguyên