Tâm tình và sự tri ân trong ‘Bóng thi sĩ - Hình văn nhân’"
Trong dòng chảy sôi động của văn học Việt Nam đương đại, sự hiện diện của một tác phẩm như Bóng thi sĩ - Hình văn nhân của Phụng Thiên thực sự là một nốt trầm sâu lắng, giàu chất suy tư và cảm xúc.
Không rực rỡ trong cốt truyện hư cấu hay những khám phá hiện đại về kết cấu, tập sách này chọn một hướng đi dung dị: ghi lại chân dung, hành trình và dấu ấn của “những con người làm khoa học nghiêm cẩn” – từ thầy giáo đến nhà thơ, nhà phê bình, từ người đã khuất đến những tên tuổi đương thời. Nhưng đằng sau sự dung dị ấy là một tấm lòng tri ân sâu sắc, một nỗ lực dựng lại "hình văn nhân" giữa thời đại nhiều chuyển dịch và quên lãng.

Tựa đề “Bóng thi sĩ” gợi đến những hình ảnh xa xăm, thoảng qua – như một bóng nắng cuối ngày hay hồi ức khôn nguôi về những người từng hiện diện và soi rọi tâm hồn người viết. Tập sách mở đầu bằng hồi tưởng và sự biết ơn dành cho những người thầy đã dạy dỗ tác giả – như GS. Nguyễn Đăng Mạnh, PGS. Văn Giá, PGS. Trương Sỹ Hùng… Những trang viết ấy không mang tính nghiên cứu lý luận theo kiểu kinh viện, cũng không sa vào ca tụng một chiều. Thay vào đó, tác giả tái hiện các kỷ niệm lớp học, câu chuyện đời thường, phong thái sư phạm, những nhận định học thuật cùng các mối liên hệ cá nhân sâu xa – từ đó làm bật lên hình tượng một lớp trí thức văn chương sống và viết đầy tâm huyết.
Trong Bóng thi sĩ – Hình văn nhân, Phụng Thiên đã lặng lẽ đi qua từng bóng dáng thi sĩ, từng dáng hình nhà văn như người nhặt những cánh hoa ký ức rơi rụng giữa vườn văn chương mênh mông, gom lại thành tập chân dung đầy tri ân và xúc cảm. Đó không chỉ là những người thầy, người bạn mà còn là những nhân cách văn chương lớn – “những ngọn núi sừng sững mà mỗi người chỉ có thể nhìn thấy một phía”.
Ở GS. Nguyễn Đăng Mạnh, anh thấy "phong thái giản dị, dáng người nhỏ nhắn", người đã "gieo vào tâm hồn chúng tôi những kỷ niệm đẹp về một trong những giáo sư văn học hàng đầu". Với PGS. Văn Giá, là người “giải mê” cho những sinh viên còn đắm trong ảo mộng về nghề viết, người khuyến khích “đọc, đọc, đọc, đọc” để tự mình bứng gốc những ảo tưởng phù phiếm. Thầy Trương Sỹ Hùng hiện lên như “người dành cả cuộc đời nghiên cứu sâu về tôn giáo và văn hóa”, giản dị và uyên bác, để lại cho trò cả sự dẫn dắt lẫn những giây phút thân tình, đến mức “kín đáo dúi cho mỗi đứa 100 ngàn đồng” sau một hội thảo. Và còn đó là nhà văn Phạm Việt Long – “chàng chiến binh mang vết sẹo ở chân”, người đã từng viết: “Tôi không ngại hy sinh gian khổ. Tôi chỉ sợ không làm được nghiệp vụ”, một tiếng nói lương tri trong chiến tranh và văn học.

Viết về Nguyễn Thị Kim Nhung tuy ngắn nhưng vẫn toát lên sự trân trọng của Phụng Thiên dành cho một cây bút nữ âm thầm mà bền bỉ. Anh mô tả thơ của chị là “dịu dàng mà mạnh mẽ” – một sự kết hợp giữa giọng điệu nữ tính truyền thống và tinh thần nội lực trong cách viết. Tuy không đi sâu vào phân tích tác phẩm cụ thể, Phụng Thiên vẫn nhấn mạnh chất thơ của Kim Nhung thiên về cảm xúc đời sống, gia đình, quê hương – những chủ đề gần gũi nhưng được thể hiện bằng thái độ tiết chế và chân thực.
Nếu những người thầy là “ngọn núi lớn” khơi dậy tầm vóc tư tưởng, thì các nhà thơ đương đại – đặc biệt là những người cùng thời, cùng thế hệ – được Phụng Thiên phác họa với chất “đồng điệu” hơn, trong tinh thần sẻ chia, quan sát và cầu thị. Khúc Hồng Thiện hiện lên như một người lặng lẽ giữa sự ồn ã của mạng xã hội, giữa văn chương tốc độ và sự kiện hóa, là “người giữ phẩm hạnh văn chương”. Dù phần viết không dài, nhưng chính lối nói tiết chế ấy lại như đồng điệu với thơ của Thiện – thơ có tiết điệu nội tâm, không phô trương nhưng thấm sâu. Có lẽ cũng vì thế, Phụng Thiên không “giải thích” quá nhiều, mà chỉ lặng lẽ đứng bên để ngợi ca bằng sự kính trọng lặng lẽ.
Với Vũ Gia Hà – một người bạn viết thân thiết, “người bay trong thiên hà xúc cảm và nghệ thuật” có lẽ cũng là nhân vật khiến Phụng Thiên cởi mở và viết “tung tẩy” nhất. Anh mô tả Vũ Gia Hà như người dũng cảm thể nghiệm và phá vỡ khuôn khổ thơ ca truyền thống, đại diện cho thế hệ trẻ dám thử nghiệm, dám đập bỏ để tạo dựng cái mới. Phụng Thiên dành cho người bạn này một thứ tình cảm vừa thân mật vừa khâm phục – không chỉ bởi cá tính thơ, mà còn bởi thái độ sống tận tụy với nghề viết. Đặc biệt, đoạn viết về tập thơ Hoa nở trong trăng của Vũ Gia Hà với hình ảnh “người bay khắp các thiên hà” là một trong những đoạn văn giàu chất thơ và tưởng tượng nhất trong cả tập sách. Thơ anh được mô tả là như những chuyến du hành tâm thức – “Tôi chờ thu sang/ Để ném trăng/ Vào vách đá” – bay bổng, phi logic, đầy ẩn dụ. Phụng Thiên cho rằng Vũ Gia Hà đang tạo dựng một cõi thơ ba chiều: cõi người, cõi tình yêu, cõi siêu tưởng – điều hiếm thấy trong thơ trẻ hiện nay.
Nếu nhà thơ là người bay đi giữa thiên hà, thì nhà văn Nguyễn Văn Học lại là người lặn sâu vào hiện thực, viết bằng sự từng trải. Là tác giả của hơn 40 đầu sách ở tuổi hơn 40, Nguyễn Văn Học được Phụng Thiên kính trọng gọi là “người viết từ nhọc nhằn” – người đã từng làm thuê, ăn cơm chan nước muối, sống giữa tầng lớp lao động và biến trải nghiệm ấy thành chữ. Hình ảnh anh gò mình bên bàn viết mỗi ngày 3 giờ, hay cảnh trò chuyện với lao động nghèo “những cô gái bán hoa” trong nhà nghỉ – tất cả là một cách sống cùng văn chương chứ không chỉ viết văn chương.
Tập thơ Vực trắng của Lữ Mai hiện lên trong Bóng thi sĩ – Hình văn nhân như một bản du ca siêu thực – nơi thơ không chỉ để đọc mà còn để chiêm nghiệm, để vượt thoát. Với 54 bài thơ được chia thành 5 phần, Vực trắng là một hành trình nội tâm nhiều tầng lớp, nơi những hình ảnh như “bọt nước vẽ hoa trắng” hay “thác âm ba tịnh độ chín tầng” trở thành biểu tượng cho sự thanh lọc và tái sinh. Khác với quan niệm thông thường về “vực” như nơi tối tăm và tuyệt vọng, Lữ Mai dùng màu “trắng” để biến vực thành không gian của ánh sáng và giải thoát. Giọng thơ chị dịu dàng, nữ tính nhưng thấm đẫm tư tưởng, thể hiện rõ bản lĩnh của một người viết từng trải, sống sâu và viết với một niềm tin tĩnh tại. Phụng Thiên đã nhìn nhận tập thơ như một cõi thiền thơ, nơi người đọc có thể đối diện với chính mình trong lặng lẽ và hồi sinh.
Còn với Giấc mơ sông Thương của Nguyễn Phúc Lộc Thành, được Phụng Thiên xem như một “giấc mộng quê hương” vừa chân thực vừa mơ hồ, nơi dòng sông không chỉ là địa lý mà trở thành biểu tượng sống động của ký ức và tâm hồn dân tộc. Gồm 36 bài thơ lục bát mượt mà, tập thơ khơi gợi vẻ đẹp sâu lắng của vùng quan họ Bắc Ninh – Bắc Giang, nhưng không dừng lại ở hoài niệm, mà chuyển hóa thành cảm thức hiện sinh. Dòng Thương hiện lên như một thực thể sống, có lúc uốn lượn mềm mại, có khi trôi miên man giữa dòng chảy ký ức: “con sông chảy qua mái tóc mẹ/ qua cánh đồng cha/ qua giấc ngủ trưa em bé”. Phụng Thiên xúc động thừa nhận: “Tôi được sinh ra ở Bắc Giang, tuổi thơ được tắm mát ở sông Thương mà chưa viết một bài nào về sông Thương cả” – một lời thú nhận chân thành, cũng là sự cảm phục dành cho người đã thay mình nói lên tiếng lòng quê hương. Với hình ảnh sông như một linh hồn mềm mại và bền bỉ, Giấc mơ sông Thương không chỉ là tập thơ mang tính địa phương, mà là tiếng vọng của một miền đất trong lòng người Việt.

Từ Nguyễn Đăng Mạnh, Văn Giá, Trương Sỹ Hùng, Khúc Hồng Thiện đến Vũ Gia Hà, Nguyễn Văn Học từ Lữ Mai đến Phạm Việt Long, Nguyễn Phúc Lộc Thành, từ người đang sống đến người đã khuất, Bóng thi sĩ – Hình văn nhân là một bức tranh tập thể của văn chương Việt Nam hiện đại – nơi mỗi “hình” văn nhân là một gam màu – tươi sáng hay trầm mặc, nhưng đều được đặt lên khung bởi lòng biết ơn, sự tôn trọng và tình nghĩa. Đó là một văn bản của ký ức, của cảm xúc, và của sự trao gửi, để nhắc nhớ rằng: văn chương không chỉ để đọc, mà để sống cùng, nhớ cùng, và tri ân cùng.
Trong tác phẩm này không bàn về bút lực hay học thuật, thứ mà tôi cảm nhận được trong từng câu chữ anh gửi gắm là lòng biết ơn. Sự biết ơn này không phải là sự ngợi ca suông, mà là lòng kính trọng đối với văn hóa truyền nghề, đối với các thế hệ đã kiến tạo nền móng cho văn học nước nhà. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, khi văn chương ngày càng bị lấn át bởi các xu hướng truyền thông ngắn hạn, việc dành thời gian và tâm huyết để “tạc hình” những văn nhân như Phụng Thiên đang làm là điều quý hiếm.Tác phẩm cũng như một bài học lớn về đạo lý và thái độ làm nghề: rằng người viết không thể chỉ sống với bản thân mình, mà phải sống trong mối dây liên kết giữa thầy – trò, bạn viết – bạn đọc, giữa truyền thống – hiện đại.
Bóng thi sĩ – Hình văn nhân không phải là một tác phẩm gây chấn động giới học thuật, nhưng lại là một tác phẩm có sức thuyết phục mạnh mẽ về mặt nhân văn. Đó là một cuốn sách viết bằng tâm, viết bằng trí nhớ và viết bằng sự kính trọng. Trong đó, ta không chỉ thấy hình bóng của những nhà văn – nhà giáo, mà còn thấy được sự trưởng thành về tư duy và tâm thế của một người viết trẻ. Cuốn sách là minh chứng cho nhận định rằng: văn chương không chỉ là chuyện câu chữ mà còn là chuyện người, chuyện đời, chuyện đạo lý sống – và nếu còn người viết như Phụng Thiên, văn chương vẫn còn lý do để tiếp tục được yêu, được học, được tôn vinh.